BÀI: XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA
TỔ CHỨC CƠ SỞ HỘI
1. Vị trí của tổ chức cơ sở Hội
Hội Nông dân Việt
Nam được tổ chức theo bốn cấp hành chính: cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện
và cấp xã và các đơn vị tương đương cùng cấp. Cơ sở Hội là cấp cuối cùng, là
nền tảng của Hội ở cơ sở trong hệ thống tổ chức Hội.
Tổ chức cơ sở Hội
được thành lập ở đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Những đơn vị kinh tế,
nông trường, lâm trường, hợp tác xã nếu có nhu cầu thành lập cơ sở Hội và được
Hội cấp trên trực tiếp xem xét quyết định thì được thành lập cơ sở Hội. Những
cơ sở Hội khi có nhu cầu sáp nhập, chia tách, giải thể thì Ban Chấp hành cơ sở
đề nghị Ban Chấp hành cấp trên trực tiếp xem xét quyết định.
2. Vai trò của tổ chức sở sở Hội
Tổ chức cơ sở Hội
có vị trí, vai trò rất quan trọng: là nền tảng của Hội ở cơ sở, là nơi trực
tiếp giữ mối liên hệ với hội viên, nông dân, là cầu nối giữa Hội với hội viên,
nông dân, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết, Chỉ thị của Hội cấp trên; là nơi
rèn luyện, giáo dục, kết nạp hội viên, là cầu nối giữa Đảng với nông dân, tuyên
truyền vận động nông dân vào Hội; nắm và phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính
đáng của hội viên, nông dân với Đảng, chính quyền; là cấp cuối cùng trong tổ
chức Hội, là tổ chức sâu rộng nhất, là cơ sở xây dựng nên toàn bộ hệ thống tổ
chức Hội. Vì vậy, xây dựng tổ chức cơ sở Hội vững mạnh có ý nghĩa rất quan
trọng đối với tổ chức Hội.
3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức
Hội
Hội Nông dân Việt
Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan lãnh
đạo của Hội và đại biểu dự Đại hội các cấp được bầu cử trực tiếp bằng phiếu
kín. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất để chỉ đạo mọi
hoạt động của Hội, đảm bảo cho sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức
mạnh của cả hệ thống Hội.
Cơ quan lãnh đạo
cao nhất của Hội Nông dân Việt Nam là Đại hội Đại biểu toàn quốc của Hội. Cơ
quan lãnh đạo cao nhất của mỗi cấp là Đại hội cấp đó. Số lượng và cơ cấu đại
biểu đại hội cấp nào do ban chấp hành cấp trên trực tiếp hướng dẫn và do ban
chấp hành cấp đó quyết định. Đại hội chỉ hợp lệ khi có mặt 2/3 tổng số hội viên
(nếu là Đại hội toàn thể hội viên) hoặc 2/3 tổng số đại biểu được triệu tập
(nếu là Đại hội đại biểu) dự họp. Giữa hai kỳ Đại hội, cơ quan lãnh đạo của Hội
Nông dân Việt Nam là Ban Chấp hành Trung ương Hội, ở mỗi cấp là Ban Chấp hành
Hội Nông dân cấp đó.
Ban Chấp hành Hội
Nông dân các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước Đại
hội cùng cấp, trước Ban Chấp hành cấp trên; định kỳ thông báo tình hình hoạt
động của mình đến các tổ chức Hội trực thuộc; thực hiện tự phê bình và phê
bình, kiểm điểm, đánh giá sự lãnh đạo, chỉ đạo qua các kỳ hội nghị.
Tổ chức Hội và cán
bộ, hội viên phải chấp hành Nghị quyết của Hội. Thiểu số phục tùng đa số, cấp
dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong hệ thống
Hội phục tùng Đại hội Đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương Hội.
Hội nghị Ban Chấp
hành, Ban Thường vụ chỉ hợp lệ khi có mặt 2/3 số ủy viên được triệu tập trở
lên. Nghị quyết của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ chỉ có giá trị khi quá 1/2
tổng số ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ được triệu tập biểu quyết đồng ý.
Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Cán bộ,
hội viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên Ban Chấp
hành cấp trên cho đến Đại hội Đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm
chỉnh Nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với Nghị quyết của Hội. Tổ
chức Hội có thẩm quyền nghiên cứu, xem xét ý kiến đó, không phân biệt đối xử
với cán bộ, hội viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
Tổ chức Hội quyết
định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ Hội,
các Chỉ thị, Nghị quyết của Hội cấp trên.
Hội cấp trên trực
tiếp chỉ định ủy viên ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ và các chức danh chủ
chốt trong trường hợp tổ chức Hội mới được thành lập hoặc được thành lập mới do
có sự thay đổi về địa giới hành chính như chia tách, sáp nhập, hợp nhất trong
nhiệm kỳ. Trong trường hợp thực hiện kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, cơ cấu
lại đội ngũ cán bộ ở cơ sở theo chỉ đạo của Đảng, số lượng ủy viên ban chấp
hành Hội Nông dân cấp xã còn dưới 50% so với tổng số ủy viên ban chấp hành theo
đề án được đại hội thông qua, thì ban thường vụ Hội Nông dân cấp huyện có quyền
chỉ định bổ sung ủy viên ban chấp hành Hội Nông dân cấp xã. Số lượng ủy viên
ban chấp hành Hội Nông dân cấp xã sau khi đã được chỉ định bổ sung không được
vượt quá 2/3 tổng số ủy viên ban chấp hành theo Đề án được đại hội thông qua.
II. NỘI DUNG XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ HỘI
1. Công tác hội viên
Công tác hội viên là
một trong những nhiệm vụ trọng yếu của xây dựng tổ chức cơ sở Hội, bao gồm hai
nội dung: Phát triển hội viên mới và nâng cao chất lượng hội viên. Hai nội dung
đó quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển. Vì thế, phải làm tốt công tác hội viên thì việc xây dựng tổ chức cơ sở
Hội mới có hiệu quả thiết thực và khẳng định được vị trí, vai trò của Hội Nông
dân.
Đại
hội VII đã đề ra chỉ tiêu: “Kết nạp 1.200.000 - 1.500.000 hội viên mới. Cơ sở
Hội khá và vững mạnh đạt trên 85%, không còn cơ sở Hội yếu kém”.
Vì thế, phải làm
tốt công tác hội viên thì việc xây dựng tổ chức cơ sở Hội mới có hiệu quả thiết
thực và khẳng định được vị trí, vai trò của Hội Nông dân.
Để thực hiện tốt
chỉ tiêu trên, cần tập trung làm tốt các việc:
1.1. Phát triển hội viên
Số lượng hội viên
rất quan trọng, vì nó phản ánh lực lượng quần chúng và mức độ giác ngộ của quần
chúng. Hội Nông dân là một đoàn thể quần chúng, là tổ chức chính trị - xã hội
rộng lớn của giai cấp nông dân do Đảng lãnh đạo. Do vậy, muốn Hội lớn mạnh
không thể chỉ dừng ở việc nâng cao chất lượng hội viên, mà đồng thời phải không
ngừng tập hợp đông đảo nông dân vào Hội.
- Điều kiện vào Hội:
Theo Điều lệ Hội
Nông dân Việt Nam: Hội viên Hội Nông dân Việt Nam là công dân Việt Nam đang học
tập, công tác và lao động trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, từ 18 tuổi trở lên, tán thành Điều lệ Hội và tự
nguyện tham gia tổ chức Hội; có tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc;
nhiệt tình tham gia các phong trào của Hội; chấp hành tốt đường lối, chủ trương
của Đảng và pháp luật của Nhà nước; gắn bó mật thiết với giai cấp nông dân và
vì nông dân".
Uỷ viên ban chấp
hành từ cơ sở trở lên đương nhiên là hội viên Hội Nông dân Việt Nam.
- Thủ tục kết nạp hội viên: Người muốn vào Hội phải tự nguyện
viết đơn xin vào Hội, chi hội xét duyệt và lập danh sách đề nghị lên Ban Chấp
hành cơ sở Hội ra quyết định kết nạp hội viên. Khi có quyết định kết nạp hội
viên, chi Hội có trách nhiệm mời những người có tên trong danh sách được kết
nạp dự cuộc họp chi Hội gần nhất và công bố quyết định kết nạp hội viên mới.
- Cần tiếp tục tuyên truyền, giáo dục để hội viên hiểu rõ và
thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ cũng như quyền lợi của hội viên (đã được ghi
trong Điều lệ Hội).
- Phương hướng phát
triển hội viên là tuyên truyền, vận động đông đảo nông dân vào Hội với chất
lượng hội viên ngày càng cao. Trong điều kiện thực tế hiện nay, trên địa bàn
nông thôn, ngoài Hội Nông dân còn có nhiều đoàn thể khác, như: Hội Phụ nữ, Đoàn
Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi. nên các đối tượng có thể
kết nạp vào Hội khó có điều kiện cùng một lúc tham gia nhiều đoàn thể. Vì thế,
phương hướng phát triển hội viên trước mắt là mỗi hộ nông dân có ít nhất một
lao động chủ chốt vào Hội. Lao động chủ chốt có vai trò quan trọng trong gia
đình, họ vào Hội sẽ có ảnh hưởng tích cực đến các thành viên khác trong gia
đình, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ công tác Hội và phong trào nông dân, xây
dựng nông thôn mới.
Muốn đẩy mạnh công
tác phát triển hội viên, cơ sở Hội cần chỉ đạo làm tốt các việc:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng
để cán bộ, hội viên, nông dân hiểu rõ về Hội, nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí,
vai trò của Hội Nông dân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn.
- Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội, thực sự
đem lại lợi ích thiết thực cho hội viên, nông dân, thu hút ngày càng nhiều nông
dân vào Hội.
- Tăng cường các hoạt động kinh tế - xã hội; mở rộng các hình
thức dịch vụ hỗ trợ, tư vấn giúp nông dân phát triển sản xuất - kinh doanh,
như: Vay vốn, chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tổ chức dạy nghề, tạo
thêm việc làm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản,...
- Tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ, bồi dưỡng các chuyên đề: Chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các Nghị quyết,
Chỉ thị của Hội cấp trên; dân số và phát triển, môi trường.
- Vận động hội viên, nông dân thực hiện tốt Pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn, tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền
trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã
hội.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giữ vững kỷ luật Hội, đưa sinh
hoạt Hội vào nề nếp, cải tiến nội dung sinh hoạt, nâng cao uy tín của tổ chức
Hội ở cơ sở.
1.2. Nâng cao chất lượng hội viên
Hội viên là
những thành viên cấu thành nên tổ chức Hội, chất lượng hội viên tốt, tổ chức
Hội mới mạnh.
- Chất lượng hội viên là sự thể hiện ý thức trách nhiệm của hội
viên trong việc tham gia sinh hoạt và xây dựng Hội. Nâng cao chất lượng hội
viên là nhiệm vụ thường xuyên và cấp thiết của các cấp Hội, vì chất lượng hội
viên có tính quyết định chất lượng phong trào và là một trong những tiêu chuẩn
để đánh giá hiệu quả công tác của tổ chức cơ sở Hội.
- Để nâng cao chất
lượng hội viên phải thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để hội
viên nhận thức và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, Điều lệ, Chỉ thị, Nghị quyết của Hội. Cán bộ cơ sở Hội,
nhất là cán bộ chi Hội, tổ Hội cần thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng,
khó khăn, vướng mắc của từng hội viên, từ đó có biện pháp động viên, giáo dục,
giúp đỡ họ hoàn thành nhiệm vụ của Hội.
- Ban Chấp hành cơ sở
và cán bộ chi Hội, tổ Hội phải có sổ danh sách hội viên để theo dõi chính xác
số lượng và chất lượng hội viên. Làm tốt công tác phân loại, đánh giá chất
lượng hội viên 6 tháng một lần; tìm rõ nguyên nhân để có biện pháp giáo dục cá
biệt với những hội viên yếu kém, giúp họ hoạt động Hội tốt hơn. Hoàn thiện các
loại sổ sách, chú trọng công tác quản lý hội viên, phát thẻ hội viên, công tác
hội phí, sinh hoạt chi Hội, tổ Hội; công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật.
Phải có hình thức biểu dương, động viên kịp thời những hội viên hoạt động tốt,
đặc biệt chú ý đến việc xây dựng số hội viên cốt cán ở các chi, tổ Hội.
- Đa dạng hóa các hình thức tập hợp, thu hút và kết nạp hội
viên: Mở rộng thành phần đối tượng hội viên, chú trọng hội viên là ngư dân,
vùng bãi ngang ven biển, nông dân vùng đồng bào có đạo, các chủ trang trại,
giám đốc các doanh nghiệp, các hợp tác xã phục vụ nông nghiệp, nông thôn, các
nhà khoa học, học sinh phổ thông trung học, sinh viên đại học, cao đẳng...
2. Xây dựng chi Hội, tổ Hội
2.1. Xây dựng chi Hội
- Khái niệm chi Hội:
Chi hội là đơn vị hành động, cầu nối của ban chấp hành cơ sở với hội viên, nông
dân. Chi hội tổ chức theo thôn, ấp, bản, làng, khu phố, hợp tác xã và theo nghề
nghiệp. Chi hội có từ 100 hội viên trở lên được chia thành các tổ hội (theo địa
bàn, đối tượng, nghề nghiệp, sở thích.).
- Chi Hội nghề
nghiệp: được hình thành khi 1 tổ Hội nghề nghiệp đã phát triển về quy mô, số
lượng hội viên, hoặc được hình thành từ nhiều tổ hội nghề nghiệp có nhu cầu
liên kết để tổ chức hoạt động chung, thống nhất.
- Nhiệm vụ của chi
Hội
+ Tổ chức học tập,
phổ biến chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Hội cấp trên đến hội viên, nông dân. Chi hội
phối hợp với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở thôn, ấp, bản, làng, khu
phố... vận động nông dân thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật và nghĩa
vụ công dân với Nhà nước. Thực hiện tốt các quy định của pháp luật về thực hiện
dân chủ ở cơ sở, vận động hoà giải tranh chấp trong nội bộ nông dân; nòng cốt
trong các phong trào phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới.
+ Hướng dẫn các tổ
Hội học tập nâng cao chất lượng và phát triển hội viên, sinh hoạt tổ Hội, thu
nộp hội phí, xây dựng quỹ Hội; đoàn kết tương trợ giúp nhau trong sản xuất,
kinh doanh và đời sống.
+ Hằng tháng chi Hội phải báo cáo với ban chấp hành cơ sở và tổ
chức Đảng cùng cấp về tình hình tổ chức, hoạt động của Hội, sản xuất, đời sống
và tâm tư nguyện vọng của hội viên, nông dân.
2.2.Xây dựng tổ Hội
- Khái niệm tổ Hội: Tổ hội là đơn vị dưới chi hội, được thành lập theo địa bàn
dân cư, theo nghề nghiệp, đơn vị kinh tế, tổ hợp tác... cho phù hợp và thuận
tiện sinh hoạt. Tổ hội có tổ trưởng và tổ phó do hội viên cử. Mỗi tháng tổ hội
họp một lần.
- Tổ Hội nghề nghiệp: Những hội viên, nông dân cùng sản xuất
một loại giống, cây, con. hay cùng kinh doanh, cùng làm dịch vụ một nhóm ngành,
nghề, lĩnh vực, có những điểm chung về sử dụng tư liệu sản xuất, công cụ lao
động, về phương thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, về thu hoạch, chế
biến, bảo quản, tiêu thụ nông sản hàng hóa ... vào tham gia sinh hoạt trong một
tổ Hội, gọi chung là “TổHội nghề nghiệp”.
- Nhiệm vụ của tổ
Hội: Tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân đoàn kết, tương trợ, hợp tác lao
động sản xuất, kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ công dân, chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần của hội viên, nông dân, vận động hội viên, nông dân xây dựng
gia đình văn hoá, giữ gìn an ninh trật tự, hoà giải những vụ tranh chấp của hội
viên, nông dân; thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển hội viên, xây dựng quỹ Hội,
thu nộp hội phí theo quy định.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ chi Hội, tổ Hội
- Chi Hội tổ chức đại
hội. Đại hội bầu Ban chấp hành chi Hội. Ban chấp hành chi Hội bầu chi Hội
trưởng, chi Hội phó .
- Ban chấp hành chi
Hội phải được Ban Chấp hành cơ sở Hội công nhận bằng văn bản.
- Nhiệm kỳ đại hội
chi Hội là 5 năm, trường hợp đặc biệt có thể tổ chức sớm hơn hoặc muộn hơn
nhưng không quá 6 tháng và phải được Ban Chấp hành cơ sở Hội đồng ý.
- Tổ Hội do chi Hội
thành lập. Tổ Hội có 1 tổ trưởng và từ 1- 2 tổ phó do hội viên cử ra.
- Chi Hội trưởng, tổ
trưởng là người đứng đầu đơn vị hành động của Hội cùng với chi Hội phó, tổ phó
trực tiếp tuyên truyền, vận động, tổ chức hội viên, nông dân thực hiện mọi
nhiệm vụ công tác Hội; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp
của hội viên, nông dân, là người thường xuyên, trực tiếp lắng nghe ý kiến, nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng của hội viên, nông dân để phản ánh với Hội cấp trên,
với Đảng, Nhà nước những vấn đề có liên quan đến đường lối, chính sách về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn. Cán bộ chi Hội, tổ Hội là “tai mắt” của Hội, đồng
thời là người trực tiếp chia sẻ, tư vấn, giúp đỡ hội viên, nông dân giải quyết
những khó khăn, vướng mắc trong đời sống, sản xuất.
Để hoàn thành tốt
vai trò của mình, cán bộ chi Hội, tổ Hội cần có các tiêu chuẩn chủ yếu sau:
- Phải là những người nhiệt tình với công tác Hội.
- Có kiến thức, kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh.
- Có năng lực vận động, thuyết phục hội viên, nông dân.
- Gương mẫu về đạo đức, lối sống.
- Gần gũi, sâu sát quần chúng
- Có uy tín với hội viên, nông dân.
Nhiệm vụ chi Hội
trưởng, chi Hội phó, tổ trưởng, tổ phó:
- Nắm vững các chủ trương công tác của cấp uỷ Đảng, chính quyền
địa phương, của Ban Chấp hành Hội cấp trên. Căn cứ vào tình hình cụ thể về sản
xuất, đời sống, tâm tư, nguyện vọng của hội viên, nông dân, đề ra kế hoạch hoạt
động của chi Hội, tổ Hội hàng tháng một cách cụ thể, thiết thực.
- Duy trì sinh hoạt chi Hội, tổ Hội theo quy định của Điều lệ
Hội, tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác của chi Hội, tổ Hội, tập trung vào
việc xây dựng Hội, phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới. Quá
trình thực hiện nhiệm vụ, người cán bộ chi Hội, tổ Hội phải có phương pháp công
tác khoa học.
- Thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo theo quy định
của Hội cấp trên.
4. Đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt chi
Hội, tổ Hội
4.1. Đổi mới nội dung
Nội dung sinh hoạt
chi Hội, tổ Hội phải có chủ đề, bám sát chương trình công tác của Hội hàng
tháng, hàng quý; tập trung vào những vấn đề thiết thực đối với hội viên, nông
dân.
- Chi hội họp 3 tháng 1 lần, khi cần thiết có thể họp bất
thường.
- Mỗi tháng tổ Hội sinh hoạt 1 lần theo nội dung do chi Hội đề
ra, ngoài ra có thể sinh hoạt bất thường.
- Nội dung các cuộc họp chi Hội, tổ Hội gồm:
+ Phổ biến chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan trực tiếp
đến sản xuất, đời sống của hội viên, nông dân; phổ biến các chủ trương công tác
của cấp uỷ đảng, chính quyền và của Hội cấp trên.
+ Kiểm điểm tình
hình tổ chức, hoạt động của Hội, tình hình sản xuất và đời sống của hội viên,
nông dân.
+ Bàn kế hoạch
triển khai các nhiệm vụ tiếp theo.
Mỗi cuộc họp nên
chọn phổ biến hoặc bàn một, hai việc cụ thể, thiết thực, bảo đảm dân chủ, bàn
dứt điểm từng việc một, tránh chung chung, hình thức.
+ Nội dung sinh
hoạt, hoạt động của chi Hội, tổ Hội nghề nghiệp tập trung vào việc trao đổi
thông tin về thời tiết nông vụ, thị trường, giá cả, thiết bị, vật tư nông
nghiệp, phương tiện sản xuất, các loại giống cây con, phòng trừ dịch bệnh, chia
sẻ kinh nghiệm sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp,
sáng kiến, sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cách thức
lập dự án sản xuất kinh doanh, thủ tục vay vốn, quản lý và sử dụng hiệu quả vốn
vay... Bên cạnh đó vẫn đảm bảo các nội dung sinh hoạt theo quy định của Điều lệ
Hội để thực hiện chức năng tuyên truyền, giáo dục hội viên, chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, nông dân.
+ Tổ Hội nghề
nghiệp nên thực hiện việc góp vốn, góp quỹ để hỗ trợ các thành viên trong tổ
vay vốn theo hình thức quay vòng, bốc thăm hoặc hình thức khác theo quy chế
chung của tổ để đầu tư vào sản xuất hoặc giải quyết những vấn đề chính đáng của
hội viên.
+Việc đánh giá, xếp
loại chi Hội, tổ Hội nghề nghiệp sẽ gắn liền với đánh giá, xếp loại hội viên,
do Ban Thường vụ Hội Nông dân cơ sở quy định trên cơ sở hướng dẫn đánh giá chất
lượng tổ chức cơ sở Hội của Ban Thường vụ Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
4.2. Đổi mới hình thức
Để nâng cao hiệu
quả hoạt động của chi Hội, tổ Hội, trước hết cần phải không ngừng đổi mới nội
dung, hình thức sinh hoạt. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của
Hội. Vì vậy, tổ chức sinh hoạt và hoạt động của chi Hội, tổ Hội cũng theo
nguyên tắc này, cụ thể là:
- Mọi công việc của chi Hội, tổ Hội do hội viên thảo luận,
quyết định, khi biểu quyết thì thiểu số phục tùng đa số. Ban chấp hành chi Hội,
tổ trưởng, tổ phó có trách nhiệm tổ chức thực hiện các quyết định của chi Hội,
tổ Hội.
- Hình thức sinh hoạt đa dạng, phong phú: có thể định kỳ, theo
chuyên đề, bất thường. Buổi sinh hoạt nên ngắn gọn, nếu có nhiều vấn đề phải
bàn bạc, thống nhất thì giải quyết dứt điểm từng vấn đề một, xong vấn đề này
mới chuyển sang vấn đề khác. Nội dung sinh hoạt phải bám sát yêu cầu thực tiễn,
nhiệm vụ chính trị của địa phương, những vấn đề bức xúc, thiết thân của hội
viên. Tránh sinh hoạt qua loa, hình thức do cán bộ chi Hội, tổ Hội chưa chuẩn
bị kỹ về nội dung và như vậy sẽ không đem lại kết quả.
- Trong sinh hoạt cần phát huy tính dân chủ và sáng tạo để hội
viên được biết, được bàn mọi công việc của Hội, tạo nên sự thống nhất trong tư
tưởng, hành động.
Cải tiến và nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi Hội, tổ Hội là nhằm thực hiện dân chủ, phát huy
tính tự nguyện, tự giác của hội viên, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ của chi Hội,
tổ Hội và góp phần làm cho hoạt động của Hội có hiệu quả.
Xây dựng cơ sở Hội
vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa sống còn của tổ chức Hội. Tuy nhiên, để có cơ sở
Hội vững mạnh phải có chi Hội, tổ Hội vững mạnh. Vì vậy, xây dựng chi Hội, tổ Hội
vững mạnh phải là cuộc vận động sâu rộng trong cả hệ thống Hội. Thực chất đây
là sự kết hợp giữa công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chi Hội, tổ Hội, phát triển
hội viên mới gắn với việc nâng cao chất lượng sinh hoạt, hoạt động của chi Hội,
tổ Hội. Cuộc vận động này đòi hỏi không chỉ có sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn
sâu sát của các cấp Hội từ trung ương đến cơ sở, mà còn đòi hỏi sự nỗ lực rất
lớn của toàn thể cán bộ, hội viên trong mỗi chi Hội, tổ Hội.
5. Xây dựng Ban Chấp hành cơ sở Hội
5.1. Xây dựng Ban Chấp hành cơ sở Hội
Ban Chấp hành cơ sở
Hội do Đại hội Hội Nông dân xã, phường, thị trấn, nông trường, lâm trường, hợp
tác xã bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm, làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ.Ban
chấp hành cơ sở Hội, gồm chủ tịch, phó chủ tịch, các ủy viên thường vụ và các
ủy viên ban chấp hành; một số đồng chí uỷ viên ban chấp hành trực tiếp làm chi
Hội trưởng và một số đồng chí khác được cơ cấu ở một số ngành có liên quan đến
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
5.1.1. Nhiệm vụ của ban chấp hành cơ sở Hội
Điều lệ Hội Nông
dân Việt Nam quy định có 6 nhiệm vụ:
- Hướng dẫn các chi hội, tổ hội học tập, thực hiện Điều lệ và
nghị quyết, chỉ thị của Hội; các nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của
Nhà nước và của cấp ủy, chính quyền cơ sở.
- Thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động; phối hợp với
chính quyền, các ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn thể ở cơ sở tuyên
truyền, vận động nông dân thực hiện các phong trào phát triển kinh tế- xã hội,
tham gia kinh tế hợp tác và hợp tác xã, làng nghề, trang trại và các loại hình
kinh tế tập thể khác. Tổ chức hoạt động hỗ trợ, tư vấn, dịch vụ giúp nông dân
phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần của hội viên, nông dân.
- Nâng cao chất lượng hội viên; xem xét, quyết định kết nạp hội
viên; bồi dưỡng cán bộ Hội; duy trì nề nếp sinh hoạt với nội dung thiết thực;
xây dựng quỹ Hội, thu nộp hội phí đúng quy định.
- Kiểm tra việc thực hiện Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết của Hội;
phối hợp với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể giám sát
thực hiện chính sách, pháp luật ở nông thôn; tham gia thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; bồi dưỡng
và giới thiệu với Đảng những cán bộ, hội viên ưu tú để Đảng xem xét, kết nạp.
- Thường xuyên phản ảnh tình hình tổ chức hoạt động của Hội,
tình hình sản xuất, đời sống, tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị của hội
viên, nông dân với cấp uỷ Đảng, chính quyền cùng cấp và Hội cấp trên.
- Chuẩn bị nội dung, nhân sự ban chấp hành và tổ chức Đại hội
khi hết nhiệm kỳ.
5.1.2. Phân công nhiệm vụ trong ban chấp hành
Trên cơ sở chức
năng, nhiệm vụ của Hội, ban chấp hành cơ sở cần phân công mỗi ủy viên ban chấp
hành phụ trách một việc phù hợp với năng lực và sở trường của từng người.
- Chủ tịch Hội Nông dân cơ sở là người đứng đầu ban chấp hành,
phụ trách chung, trực tiếp phụ trách công tác tổ chức,trong đó tập trung vào
một số việc sau:
+ Nắm vững các chủ
trương, đường lối của Đảng,chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan trực
tiếp đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn và chương trình công tác của cấp ủy
Đảng, chính quyền cơ sở, của Hội cấp trên trực tiếp; đồng thời nắm chắc tình
hình tổ chức, hoạt động của các chi Hội, tình hình sản xuất, đời sống của hội
viên, nông dân. Trên cơ sở đó đề ra kế hoạch công tác của Hội, đưa ra ban chấp
hành thảo luận và quyết định.
+ Chủ trì phân
công, chuẩn bị nội dung các cuộc họp ban thường vụ, ban chấp hành Hội Nông dân;
chuẩn bị báo cáo sơ kết, tổng kết công tác Hội hàng quý, 6 tháng, năm.
+ Chủ động báo cáo
tình hình công tác Hội, tình hình hội viên, nông dân với cấp ủy Đảng, chính
quyền cơ sở, với Hội cấp trên để xin ý kiến chỉ đạo. Chủ động phối hợp với mặt
trận, các ngành, đoàn thể cùng cấp để triển khai thực hiện chương trình công
tác của Hội.
+ Kiểm tra, đôn đốc
các uỷ viên ban chấp hành, các chi Hội trưởng thực hiện tốt các nhiệm vụ được
phân công.
- Phó chủ tịch cơ sở Hội là người giúp việc chủ tịch, chịu
trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ do BCH phân công theo quy chế tổ chức và hoạt
động; thực hiện các nhiệm vụ khác do chủ tịch phân công.
- Các ủy viên ban chấp hành cơ sở Hội:
Mỗi ủy viên ban
chấp hành được phân công phụ trách một mặt công tác như: tuyên huấn, kiểm tra,
kinh tế - xã hội hoặc trực tiếp làm chi Hội trưởng.
Các ủy viên ban
chấp hành được cơ cấu từ các chi Hội, tổ Hội chịu trách nhiệm chỉ đạo chi, tổ
Hội của mình thực hiện chương trình trọng tâm, nhiệm vụ công tác của Hội.
Ủy viên ban chấp
hành cơ cấu từ các ngành đoàn thể phân công theo nội dung, chuyên đề hoạt động
có liên quan đến công tác Hội.
5.1.3. Tổ chức họp ban chấp hành cơ sở
- Ban chấp hành cơ sở mỗi tháng họp 1 lần, khi có công việc cần
thiết có thể họp bất thường.
- Nội dung các cuộc họp gồm:
+ Kiểm điểm việc
thực hiệnnhiệm vụ công tác trong tháng.
+ Quán triệt chủ
trương công tác của Hội cấp trên, của cấp ủy Đảng và chính quyền cùng cấp.
+ Đề ra nhiệm vụ
công tác thời gian tới.
Trong sinh hoạt ban
chấp hành phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ.
5.2.
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở Hội
- Tiêu chuẩn cán bộ cơ sở Hội:
+ Có bản lĩnh chính
trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nhiệt tình, tâm huyết với nông nghiệp, nông
dân, nông thôn và công tác Hội; có lối sống lành mạnh, trung thực, giản dị, cởi
mở, chan hòa, gắn bó mật thiết với nông dân, được nông dân tín nhiệm, lời nói
đi đôi với việc làm, biết hành động thận trọng, tác phong làm việc kiên trì,
chu đáo, khoa học; có thái độ khiêm tốn học hỏi, không tự phụ, kiêu căng, không
tự ti, ỷ lại, trông chờ thụ động.
+ Cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
+ Có trình độ hiểu
biết về lý luận, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, có trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp; có hiểu biết
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; có năng lực chỉ đạo thực tiễn và tổng kết
thực tiễn; có khả năng dự báo và định hướng sự phát triển tư tưởng, tình cảm
cũng như trạng thái tinh thần của nông dân; có khả năng tập hợp nông dân, tổ
chức thực hiện tốt các Chỉ thị, Nghị quyết, chủ trương công tác Hội và các chủ
trương công tác của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương; có khả năng phối kết
hợp với các ngành, đoàn thể trong công tác; có đủ sức khoẻ để thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao.
Xây dựng đội ngũ
cán bộ cơ sở Hội phải theo các tiêu chuẩn trên và tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể ở từng nơi để từng bước phấn đấu hoànthiện.
- Một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở Hội:
+ Tham mưu cho cấp
uỷ Đảng làm tốt công tác quy hoạch, lựa chọn cán bộ Hội, tạo nguồn cán bộ qua
thực tiễn phong trào, qua kiểm tra đánh giá nhận xét cán bộ. Chú trọng phẩm
chất chính trị, năng lực, độ tuổi... và các yếu tố đặc thù ở từng cơ sở.
+ Tăng cường công
tác đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, về chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, tập huấn về kỹ năng, nghiệp vụ công tác Hội
cho cán bộ cơ sở.
+ Tăng cường ý thức
tự học, tự trau dồi kiến thức của mỗi cán bộ Hội.
+ Tổ chức các hội
thi cán bộ giỏi, qua đó học tập lẫn nhau, giao lưu kinh nghiệm công tác Hội và
phong trào nông dân.
+ Cán bộ cơ sở Hội
phải sâu sát với phong trào, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, kịp thời
rút kinh nghiệm những mặt còn hạn chế, phát huy những yếu tố tích cực.
+ Làm tốt công tác
phân công, phân nhiệm cán bộ Hội trên cơ sở phát huy những mặt mạnh, hạn chế
mặt yếu, đúng người, đúng việc.
+ Thực hiện tốt chế
độ thông tin, báo cáo, thi đua khen thưởng.
Cán bộ tổ Hội, cán
bộ chi Hội và cán bộ chủ chốt cơ sở hội: Đội ngũ cán bộ này cần được quan tâm
củng cố, xây dựng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo từng chức danh. Tuy nhiên, cần
xây dựng đội ngũ cán bộ trong ban chấp hành và đặc biệt là cán bộ chủ chốt cơ
sở Hội. Cán bộ chủ chốt cơ sở Hội chính là chủ tịch, phó chủ tịch và uỷ viên
ban chấp hành cơ sở Hội, có vai trò hết sức quan trọng, trong đó chủ tịch là
người đứng đầu đơn vị cơ sở Hội. Việc lựa chọn, bố trí đúng các chức danh này
có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ sở Hội nói
chung và của ban chấp hành Hội Nông dân cơ sở nói riêng. Trong đội ngũ cán bộ
cơ sở Hội, chủ tịch phải là người nhiệt tình, có trách nhiệm trong công tác, có
trình độ năng lực tổ chức, quản lý, điều hành đơn vị, có khả năng quy tụ quần
chúng, khơi dậy, phát huy được trí tuệ tập thể, có uy tín cao với hội viên,
nông dân, có chính kiến và sự sáng tạo trong công tác. Giúp việc chủ tịch cơ sở
Hội là phó chủ tịch, do vậy, cần phải lựa chọn những cán bộ có đủ phẩm chất,
năng lực, đảm bảo xây dựng được mối quan hệ làm việc giữa chủ tịch và phó chủ
tịch phải thật sự đoàn kết thống nhất, làm việc có hiệu quả.
6. Xây dựng tài chính Hội
- Tài chính Hội bao gồm: ngân sách Nhà nước cấp, hội phí, quỹ
Hội, nguồn thu từ tổ chức sản xuất, dịch vụ; nguồn thu do các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước ủng hộ và các nguồn thu khác.
- Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Hội, ban chấp hành cơ sở Hội
phải quan tâm công tác xây dựng tài chính Hội, coi đây là điều kiện quan trọng
để đẩy mạnh các hoạt động của Hội, xây dựng Hội ngày càng phát triển.
6.1. Hội phí
Tất cả hội viên đều
có nghĩa vụ đóng hội phí theo quy định của Điều lệ Hội, thể hiện ý thức trách
nhiệm với công tác xây dựng Hội.
Hội viên có trách
nhiệm đóng hội phí từng tháng, quý cho tổ hội, để tổ Hội nộp lên chi Hội, chi
Hội nộp lên Hội Nông dân cơ sở theo quy định.
6.2. Quỹ Hội
Ngoài hội phí, các
tổ Hội, chi Hội, Ban Chấp hành cơ sở Hội phải xây dựng Quỹ để có thêm kinh phí
hoạt động.
Nguồn tiền xây dựng
Quỹ là do hội viên đóng góp; tổ chức hội viên lao động, sản xuất, làm dịch vụ;
vận động các hộ sản xuất, kinh doanh giỏi, các tổ chức kinh tế trên địa bàn...
ủng hộ.
6.3. Tài chính của Hội
được chi cho các hoạt động của Hội
Mua sổ sách, giấy
bút, mua báo, chi tiền chè, nước uống trong các cuộc sinh hoạt, khen thưởng cán
bộ, hội viên có thành tích xuất sắc.
Mua quà thăm hỏi
hội viên ốm đau, phúng viếng hội viên qua đời hoặc bố, mẹ, vợ hoặc chồng hội
viên qua đời.
Trường hợp số dư
của quỹ lớn có thể cho hội viên vay lãi suất thấp hoặc không lấy lãi để giúp hội
viên đầu tư sản xuất hoặc xây dựng nhà cửa, mua sắm trang thiết bị sinh hoạt
gia đình.
Việc thu, chi tài
chính phải có hệ thống sổ sách theo dõi đầy đủ, 6 tháng và cuối năm phải làm
báo cáo công khai tài chính với chi hội hoặc Ban Chấp hành cơ sở Hội
Xây dựng Hội vững
mạnh là một yêu cầu cấp thiết và thường xuyên của các cấp Hội, nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển mạnh mẽ phong trào nông dân, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội VII Hội Nông dân Việt Nam. Muốn xây dựng
tổ chức Hội vững mạnh, các cấp Hội phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
tốt các nội dung về xây dựng tổ chức cơ sở Hội vững mạnh, nâng cao chất lượng
hoạt động của Ban chấp hành các cấp, xây dựng đội ngũ cán bộ và cơ quan tham
mưu giúp việc cho ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của Hội./.