ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 89 NĂM NGÀY THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM (14/10/1930 – 14/10/2019
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 89 NĂM
NGÀY THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
(14/10/1930
– 14/10/2019)
PHẦN I
TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 89 NĂM NGÀY THÀNH LẬP
HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
1. Sự ra đời của Nông
Hội đỏ, tiền thân của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay
Vào
đầu năm 1920, sau khi
dập tắt các cuộc khởi nghĩa của nông dân, ruộng đất được tích tụ vào tay một số
ít địa chủ Pháp, nhà chung, phong kiến, quan lại, địa chủ thường và địa chủ
kiêm công thương đã làm xã hội phân hóa mạnh mẽ. Giai cấp địa chủ chiếm 9% tổng
số chủ ruộng nhưng lại sử hữu trên 50% diện tích canh tác. Tiểu nông chiếm trên
90% tổng số chủ ruộng nhưng lại chỉ có gần 40% diện tích trồng cây. Ngoài ra
còn khoảng 2,2 triệu hộ trong tổng số 4 triệu hộ nông thôn lúc bấy giờ hoàn
toàn không có đất. Họ bị bóc lột dã man bởi tô, tức, thuế…
Đời
sống của nông dân dưới thời Pháp thuộc vô cùng nghèo nàn, đau khổ. Song chính
trong sự áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và tay sai đã khiến cho họ
nhận rõ bộ mặt thực của kẻ thù dân tộc và kẻ thù giai cấp. Bằng những kinh
nghiệm trực tiếp của mình, giai cấp nông dân đã tiến từng bước tới giác ngộ
chính trị. Họ sẵn sàng ủng hộ, đi theo các phong trào đấu tranh vì độc lập dân
tộc, vì quyền lợi của người lao động.
Nguyễn
Ái Quốc là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, từ lâu, Người đã hiểu và gắn
bó với nông dân Việt Nam. Trong cuốn Đường Kách mệnh (1927), đồng chí Nguyễn Ái
Quốc đặt vấn đề nông dân Việt Nam muốn
thoát khỏi ách áp bức, bóc lột thì phải “tổ chức nhau lại”, vì vậy, Người đã
dành riêng một chương phân tích về tình hình nông dân Việt Nam và tầm quan
trọng của “Tổ chức dân cày” (1), vạch
rõ nguồn gốc đói nghèo, đau khổ của nông dân Việt Nam chính là do sự áp bức,
bóc lột tàn nhẫn của đế quốc, phong kiến và bè lũ tay sai. Vì vậy “Nếu dân cày An Nam muốn thoát khỏi vòng cay
đắng, thì phải tổ chức nhau kiếm đường giải phóng” (2). Giai cấp nông dân
cần phải có tổ chức riêng của mình là Hội dân cày. Nhưng trong tình hình hiện
tại chưa nên gọi là Hội dân cày, mà nên gọi là phường lợp nhà, phường đánh cá,
phường chung lúa…
Ngày 1/11/1929, Báo “Dân cày” số đầu tiên của
tỉnh Ninh Bình được phát hành, nội dung tờ báo tố cáo sự bóc lột dã man của
thực dân, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh chống đế quốc cướp nước và đánh
đổ tay sai.
Tháng
11/1929, Ban Chấp hành Tổng Nông hội Nghệ An ra đời, do đồng chí Phan Thái Ất
làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của xứ ủy Trung Kỳ, ngày 10/12/1929 ở thành phố
Vinh – Bến Thủy và một số vùng ở Nghệ An rải truyền đơn kêu gọi các tầng lớp
nhân dân tham gia các tổ chức quần chúng của Đảng cộng sản. Truyền đơn có phần
kêu gọi Dân cày ra nhập Nông hội, theo Đảng Cộng sản đấu tranh đòi bỏ thuế
người, thuế vườn, thuế chợ, thuế đò, bỏ lệ bắt phu…
Cuối
năm 1929, trên tỉnh Hà Đông, đồng chí Bùi Sinh Chấn là đảng viên của Đông Dương
cộng sản Đảng đã tuyên truyền, tập hợp được một số thanh niên nông dân, thành
lập một tổ chức quần chúng, gọi là tổ Nông hội đỏ. Đây là tổ Nông hội đỏ đầu tiên được thành
lập.
Tiếp
theo nhiều tổ chức Nông hội đỏ được thành lập ở Thái Bình, Hà Nội, Hải Phòng,
Hải Dương và các tỉnh Trung Kỳ, Nam Kỳ…
Đầu
năm 1930, Hội nghị hợp
nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Cửu Long (Hương Cảng -
Trung Quốc), trong Sách lược vắn tắt của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự
thảo, được Hội nghị hợp nhất thông qua ngày 03/02/1930 đã nêu ra những vấn đề
cơ bản đối với giai cấp nông dân: “Đảng
phải thu phục cho được đại đa số dân cày nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến''; Đồng
thời, Đảng nhấn mạnh ''Nông dân là lực
lượng to lớn của cách mạng". Vì vậy, phải tập hợp nông dân vào một tổ
chức dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đấu tranh giành độc lập tự do và
thực hiện cách mạng ruộng đất.
Cao
trào cách mạng 1930 - 1931, dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương, các tổ
chức Nông hội cấp cơ sở được hình thành ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, đặc biệt là ở Nghệ -
Tĩnh. Nông dân cả nước đã vùng lên đấu tranh cùng với công nhân giành thắng lợi
từng bước. Chỉ tính từ tháng 5/1930 – 10/1930 cả nước có 53.000 hội viên nông
hội.
Trên
cơ sở đó, Hội nghị lần thứ Nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong tháng
10/1930 tại Hương Cảng đã thông qua bản Luận cương chính trị, Luận cương nêu
rõ: “Dân cày là hạng người chiếm đại đa
số ở đông Dương (hơn 90 phần trăm), họ là một động lực mạnh cho cách mạng tư
sản dân quyền”. Luận cương vạch rõ: “Vấn
đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp có đứng
đầu và cùng với quần chúng dân cày để tranh đấu và binh vực quyền lợi hằng ngày
cho dân cày và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để thì mới giành quyền
lãnh đạo dân cày được”.
Cùng
với việc thông qua Luận cương chính trị, Hội nghị còn ra Nghị quyết về Tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ
cần kíp của Đảng, trong đó nêu rõ các quyết định quan trọng của Hội nghị,
một trong các quyết định đó là “phải chỉnh đốn Nông hội lại cho có hệ thống
theo điều lệ mới và dự bị việc tổ chức Đông Dương Tổng Nông hội”.
Tại
Hội nghị quan trọng này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về
thành lập Tổng Nông hội Đông Dương và thông qua Điều lệ Tổng Nông Hội Đông
Dương gồm 8 điều trong đó nêu rõ mục đích ''Thống
nhất hết thảy Tổng Nông Hội Đông Dương để tranh đấu bênh vực quyền lợi hàng
ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng thổ địa''. Điều lệ Tổng Nông
hội Đông Dương quy định: “Hễ Nông hội nào
thừa nhận mục đích, Điều lệ và chịu thi hành những án nghị quyết của Tổng Nông
hội Đông Dương và nộp hội phí thì được nhận làm hội viên”. trong đó trọng
tâm là xây dựng tổ chức Nông hội, cơ sở của Nông hội là làng. Tổ chức phải theo
hệ thống dọc: từ tổng Tổng Nông hội, huyện Tổng Nông hội, tỉnh Tổng Nông hội,
xứ Tổng Nông hội, đông Dương Tổng Nông hội. Cũng tại hội nghị này Điều lệ Nông
hội làng được thông qua. Mục đích của Nông hội làng là đoàn kết hết thảy bần và
trung nông trong làng, liên hiệp với nông dân và công nhân các nơi trong nước
để đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bênh vực quyền lợi của nông dân và thực
hiện cách mạng ruộng đất.
Việc thành
lập Tổng Nông hội Đông Dương (tên gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt Nam ngày
nay) đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử giai cấp nông dân Việt
Nam, sự trưởng thành và lớn mạnh về của phong trào nông dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
2. Hội Nông dân Việt Nam và cuộc vận động
cách mạng giải phóng dân tộc (1930 – 1945)
Ngày
20/3/1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về vấn đề chỉnh đốn Nông
hội đỏ, trong đó khẳng định vai trò to lớn của Nông hội trong cách mạng, giai
cấp nông dân “là một lực lượng chính của cách mạng”. Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ hai, tháng 3/1931 nhấn mạnh: Cần
phải đẩy mạnh việc tổ chức Nông hội làng, tuyên truyền sâu rộng chủ trương của
Đảng, đồng thời chỉ rõ: trong điều
kiện địch khủng bố trắng, nông dân cùng các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu
tranh, giương cao khẩu hiệu: chống sưu thuế, địa tô, chống nạn thất nghiệp, chống
khủng bố trắng, chống cải lương lừa dối, chống chiến tranh….
Thực
hiện Nghị quyết Trung ương hai, các tổ chức Nông hội được củng cố và trực tiếp
lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân. Tháng 6/1932 Trung ương Đảng đã
khởi thảo Chương trình hành động nhằm khôi phục nhanh chóng phong trào cách
mạng, đồng thời đề ra phương hướng đấu tranh và những biện pháp cụ thể phù hợp
với tình hình mới. Chủ trương của Đảng nêu rõ: phải tận dụng mọi khả năng hợp
pháp, nửa hợp pháp để tổ chức đấu tranh và phát triển tổ chức bí mật (Nông
hội). Trên cơ sở Chương trình hành động của Đảng, Chương trình hành động của
Nông hội ra đời bao gồm 10 điểm.
Tháng
3/1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp, đề ra đường lối chính trị và
phương pháp tổ chức mới, tên của các tổ chức quần chúng đều được thay đổi cho
phù hợp với tình hình mới. Quyết định lấy tên Nông hội thay Nông hội đỏ. Nông dân có tổ chức chính là Nông hội,
có thể tổ chức nhiều hội (nhưng nội dung là Nông hội); Hội tương tế, ái hữu,
hợp tác xã, hội cấy, hội gặt, hội hiếu hỉ, hội góp họ, phường đi săn, hội chèo,
nhóm học quốc ngữ...đã thu hút đông đảo nông dân đấu tranh giành quyền lợi của
giai cấp mình. Chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng đã giúp cho Nông hội
khắp nơi trong nước phát huy vai trò của mình trong việc tập hợp, lãnh đạo nông
dân hợp lực với công nhân và nhân dân lao động đấu tranh đòi quyền dân sinh,
dân chủ.
Trong
năm 1937, có hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân chống cướp ruộng đất, đòi chia
ruộng công, giảm tô, tức, khất thuế...Từ tháng 01 – 11/1938, có 125 cuộc đấu
tranh của nông dân với 55.442 người tham gia.
Hội
nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám, tháng 5/1941 khẳng định nhiệm vụ giải phóng
dân tộc, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất thay bằng khẩu hiệu tịch thu
ruộng đất của đế quốc, việt gian chia cho dân cày nghèo, thực hiện giảm tô,
giảm tức; thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh);
Mặt trận các đoàn thể lấy tên là Cứu quốc.
''Nông
hội từ nay gọi là Việt Nam Nông dân cứu quốc hội, Việt Nam Nông dân cứu quốc hội là một bộ phận của Việt Nam
độc lập đồng minh; thu nạp hết thảy nông dân đến cả hạng phú
nông, địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp - Nhật''. Điều lệ Việt Nam Nông dân
cứu quốc được Hội nghị tháng 5/1941 thông qua
gồm 11 điều. Mục đích liên hiệp hết thảy các hạng nông dân yêu nước để binh vực quyền lợi hàng ngày cho
nông dân và cùng với các đoàn thể khác chuẩn bị đánh Pháp đuổi Nhật giành quyền
độc lập lại cho nước Việt Nam. Hội lấy làng, ấp làm cơ sở…có Ban chấp hành hội
chỉ huy, làng, tổng, tỉnh, xứ, toàn quốc đều phải cử ra Ban chấp hành, ở cấp bộ
nào phải cử đại biểu để thành lập Uỷ ban Việt Minh ở cấp ấy.
Từ
đầu năm 1941, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, nông dân
các dân tộc Cao Bằng đã tổ chức những đoàn thể cứu quốc đầu tiên. Sau đó, nông
dân từ miền ngược đến miền xuôi nô nức tham gia vào các đoàn thể của Mặt trận
Việt Minh. Nông dân cứu quốc hội,
là lực lượng to lớn của Mặt trận Việt Minh, đồng thời nông dân còn chiếm đại đa
số trong hầu hết các tổ chức cứu quốc ở nông thôn như: thanh niên, phụ nữ
...tạo nên một lực lượng chính trị rộng lớn, áp đảo kẻ thù. Các tổ chức nông
dân cùng với công nhân đã trở thành ''xương sống'' của Mặt trận. Từ các bản
làng heo hút ở vùng rừng núi Việt Bắc đại ngàn xuống đến vùng châu thổ sông Hồng
hay trong các thôn xóm của Trung Kỳ, Nam Kỳ, các đội tự vệ cứu quốc mà lực
lượng chủ yếu là thanh niên nông dân ưu tú đã lần lượt ra đời làm nòng cốt cho
phong trào đấu tranh của quần chúng.
Năm
1941 - 1942, dưới sự lãnh đạo của Nông hội, nông dân đã đấu tranh chống thu
thóc, chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu...Từ năm 1943, với khẩu
hiệu ''Đoàn kết toàn dân đánh đuổi Nhật -
Pháp''. Nông hội đã đưa nông dân tham gia vào các phong trào sôi nổi với
những hình thức như biểu tình chống Nhật, vũ trang đánh Nhật…Sau ngày Nhật đảo
chính Pháp (ngày 09/3/1945), phong trào ''Phá
kho thóc Nhật giải quyết nạn đói'' đã lôi cuốn hàng triệu nông dân vùng lên
đấu tranh trực diện với kẻ thù. Qua phong trào đấu tranh các tổ chức cứu quốc
của nông dân càng phát triển mạnh mẽ, góp sức vào làn sóng khởi nghĩa từng phần
đang nổi lên cuồn cuộn trong cả nước, làm tan rã từng mảng chính quyền cơ sở
của phát xít, tay sai, tạo nên khí thế cách mạng sôi sục, đưa cả nước hừng hực
bước vào cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công.
Thành
công vĩ đại của Cách mạng tháng Tám là một minh chứng cho tinh thần, khả năng
và vai trò cách mạng to lớn của nông dân với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Đồng thời, là một thắng lợi của sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng đối với
các tổ chức của giai cấp nông dân, thể hiện sự gắn bó giữa Đảng với nông dân,
nông dân với Đảng.
3. Giai cấp nông dân Việt Nam và Hội Nông dân
Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải
phóng miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước (1945 - 1975).
Trong
điều kiện chiến tranh ngày càng lan rộng với mức độ gay go ác liệt hơn, nhiệm
vụ kháng chiến càng đòi hỏi phải động viên toàn thể nông dân tham gia trên tất
cả các mặt trận. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thành lập Ban Nông vận Trung
ương, kiện toàn tổ chức ở cấp Trung ương.
Ngày
06/8/1949, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 02 – NQ/TW về việc
thành lập Ban Nông vận Trung ương, gồm 6 đồng chí: Hồ Viết Thắng - Ủy viên
Trung ương Đảng làm Trưởng ban, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Mạnh Hồng, Phạm Xuân
Di, Trương Việt Hùng, Trần Đào.
Với nhiệm vụ của Ban Nông vận Trung ương là vận động nông dân:
tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, nuôi dưỡng bộ đội, xây dựng hợp tác xã,
hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức, đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mù chữ.
Thực hiện chủ trương trên Ban Nông vận Trung ương đã tổ chức Hội nghị
cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ nhất họp từ ngày 28/11 – 07/01/1949 tại thôn
Phong Vân, xã Tân Tiến (Yên Sơn - Tuyên Quang). Dự Hội nghị có đông
đảo cán bộ đại diện cho tổ chức Hội Nông dân ba miền Bắc, Trung, Nam. Hội nghị
đã tập trung kiểm điểm, đánh giá ưu, khuyết điểm của tổ chức Hội, phong trào
nông dân, đặc biệt là đánh giá vai trò của tổ chức và hoạt động của phong trào
nông dân từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Trong
thư gửi Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò và tiềm lực
lớn lao của giai cấp nông dân cả nước trong đấu tranh giành chính quyền và sự
nghiệp kháng chiến. Hội nghị đã nhất trí thành lập Hội Nông dân cứu quốc Trung ương (sau
đổi tên là Ban Liên lạc Nông dân toàn quốc).
Lần
đầu tiên trong lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam, giai cấp
nông dân có một tổ chức Hội ở cấp Trung ương, đáp ứng nguyện vọng của nông dân
cả nước.
Ngày
16/4/1951 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 09 – NQ/TW về
“Thành lập các ban và tiểu ban giúp việc”, trong đó có Tiểu ban Nông vận gồm có
8 đồng chí: Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng làm Trưởng ban và các đồng
chí Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần Đức Thịnh, Phạm Xuân Dy, Nguyễn
Mạnh Hồng, Nguyễn Ca, Trần Đào.
Phong
trào nông dân từ sau Hội nghị toàn quốc lần thứ Nhất có bước phát triển mới,
toàn diện và rất mạnh mẽ. Để tiếp tục đánh giá phong trào nông dân và tổ chức
Hội Nông dân. Ban Liên lạc nông dân toàn quốc quyết định triệu tập Hội
nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ Hai, tháng 5/1951, tại thôn Đồng Quắc,
xã Bình Nhân (Chiêm Hoá - Tuyên Quang). Dự Hội nghị có hơn 100 đại biểu
đại diện cho giai cấp nông dân cả nước. Hội nghị đánh giá phong trào nông dân,
hoạt động của tổ chức Hội và quán triệt nhiệm vụ Hội Nông dân trước yêu cầu
nhiệm vụ đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tới toàn thắng. Đồng chí
Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng tới dự và phát biểu
trước Hội nghị. Đồng chí Tổng Bí thư dành nhiều thời gian nói về Chính cương
của Đảng, quan điểm của Đảng đối với nông dân và chính sách ruộng đất. Hội nghị đã tập trung quán triệt những nhiệm vụ mới của
Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào nông dân và xây dựng tổ chức Hội đáp ứng
với những yêu cầu trước mắt.
Ngày
08/3/1956, Ban Bí thư ban hành Nghị quyết số 05 – NQ/TW về “Thành lập Ban Công
tác nông thôn của Đảng”, lãnh đạo Ban Công tác nông thôn, gồm Trưởng ban là các
đồng chí Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng (4/1956 – 10/1956); các đồng
chí Phó Trưởng ban: Nguyễn Mạnh Hồng, Nguyễn Hữu Khiếu, Trần Đức Thịnh; các
đồng chí Ủy viên: Nguyễn Hữu Thái, Trương Việt Hùng, Phạm Xuân Di, Trần Đào,
Nguyễn Ca.
*Ở miền Bắc
Với
tinh thần ''Tất cả cho tiền tuyến, tất cả
để chiến thắng'', nông dân đã hăng
hái tham gia "Phong trào thi đua ái quốc sản xuất lập công đề cao chiến
sĩ'' do Đảng và Chính phủ phát động. Các cấp Hội nông dân đã tập trung vận động
thực hiện các phong trào, như: xây dựng “Cánh đồng 5 tấn”, “Thóc không thiếu
một cân, quân không thiếu một người”, phong trào thanh niên nông thôn lên đương
tòng quân giết giặc, bảo vệ Tổ quốc…
Hội Nông dân trong các vùng địch tạm chiếm đã
tiến hành nhiều hình thức đấu tranh như bám ruộng đất, làng xóm để sản xuất; lên án hành động bắn phá, đốt
hoa màu của địch; tranh thủ sản xuất, thu hoạch và cất dấu lương thực, thực
phẩm ở vùng địch hậu trong cả nước để đảm bảo được nhu cầu của nhân dân mà còn
đóng góp cho Nhà nước, phục vụ sự nghiệp kháng chiến.
Phong
trào cách mạng của giai cấp nông dân và Hội Nông dân đã đóng góp phần quan
trọng vào thắng lợi của các chiến dịch. Chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ, ngày
07/5/1954 và thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ, ngày 20/7/1954 về Đông Dương mở ra
một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Hoà bình được lập lại ở Đông Dương,
miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
*Ở miền Nam
Được
đế quốc Mỹ giúp sức, chính quyền Ngô Đình Diệm đã trắng trợn vi phạm Hiệp định
Giơnevơ và tập trung sức củng cố bộ máy thống trị phản động. đẩy mạnh việc xây
dựng quân đội ngụy làm lực lượng xung kích chống cộng và đàn áp nhân dân. Thực
hiện chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng và Chính phủ, dưới sự lãnh đạo
của các tổ chức Đảng ở nông thôn miền Nam, Nông hội vừa tích cực tổ chức, vận
động nông dân chuẩn bị đấu tranh lâu dài, vừa khẩn trương tranh thủ thời gian
trước khi bàn giao các địa bàn cho đối phương để củng cố sản xuất, ổn định đời
sống. Nam Bộ và khu V tiếp tục đẩy mạnh việc chia cấp ruộng đất cho nông thôn
nâng tổng số ruộng đất chia cho đồng bào lên 750.000ha cho 1.299.000 hộ nông dân.
Phong
trào đấu tranh chính trị của nông dân miền Nam diễn ra hết sức mạnh mẽ, quyết
liệt. Các làng, xã chiến đấu được hình thành và phát triển.
Ngày
20/12/1960, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam đã họp tại căn cứ Bắc Tây Ninh,
tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ngày
21/4/1961, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức được thành
lập và là thành viên của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự ra
đời của Hội là một mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển của tổ chức nông dân, mà
trên thực tế hàng ngàn cơ sở Nông hội cứu quốc ở các khu, tỉnh, huyện, xã đã
được phục hồi trong thời gian Đồng khởi.
Để phát huy những thành quả đạt được sau 5 năm
hoạt động, tháng 01/1965 Đại hội lần thứ Nhất của Hội Nông dân Giải phóng miền
Nam được khai mạc. Đại hội đã đánh giá tình hình họat động của Hội từ khi ra
đời và quán triệt yêu cầu nhiệm vụ mới của nông dân trong đấu tranh chống kế hoạch
bình định nông thôn của ngụy quyền Sài Gòn. Đại hội đã biểu dương những thành
tích to lớn của nông dân miền Nam trong việc phát triển thế trận chiến
tranh nhân dân và chiến tranh du kích, đánh địch bảo vệ vùng giải phóng,
vùng căn cứ cách mạng và là lực lượng chủ yếu trên mặt trận sản xuất, bảo đảm
đời sống và cung cấp hậu cần cho bộ đội ở tiền phương đánh giặc.
Qua Đại hội I, Hội Nông dân Giải phóng miền Nam,
phong trào của Hội tiếp tục được phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất
lượng. Lúc này bộ máy tổ chức của Hội Nông dân Giải phóng miền Nam đã hình
thành theo 5 cấp: Miền, Khu, Tỉnh, Huyện và Xã. Xã là tổ chức cơ sở của Hội, xã
có Ban chấp hành, dưới xã có Ban cán sự thôn, ấp và tiểu tổ Hội. Bộ máy của Hội
được củng cố từ Xã lên Huyện, Tỉnh và Khu.
Tháng
7/1965 Hội Nông dân giải phóng miền Nam đã ban hành dự thảo Điều lệ hoạt động
của Hội nhằm tiếp tục mở rộng hoạt động của các cấp Hội cơ sở, phát triển hội
viên và động viên nông dân phát huy vai trò tích cực của mình trong sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tháng
1/1969, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến hành Đại hội lần thứ
II, nhằm tổng kết phong trào đấu tranh của nông dân trong tám năm, đồng thời
quán triệt yêu cầu và nhiệm vụ mới của nông dân trong đấu tranh chống kế hoạch
''Bình định cấp tốc'' của địch. Đại hội đã biểu dương những thành tích to lớn
của nông dân miền Nam trong việc phát triển thế trận chiến tranh du kích, đánh
địch, bảo vệ vùng giải phóng, vùng căn cứ và là lực lượng chủ yếu trên mặt trận
sản xuất, bảo đảm đời sống và cung cấp hậu cần cho bộ đội. Hội tập trung vận
động, tuyên truyền nông dân thực hiện đúng đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của Đảng.
Thực
hiện chủ trương của Đảng, lấy địa bàn nông thôn làm hướng tiến công chính, đánh
mạnh vào kế hoạch “Bình định cấp tốc” của địch, giữ đất, giành dân, Hội Nông
dân đã chủ động giáo dục hội viên khắc phục tư tưởng nôn nóng, thoát ly thực tế
muốn thắng nhanh, đồng thời vạch rõ nhiệm vụ quan trọng nhất ở nông thôn là
phải ''giành dân, giành đất, phát triển
thế và lực của ta". Nông dân liên tục nổi dậy phá rã, phá banh nhiều
khu dồn dân, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ trên nhiều địa bàn quan
trọng. Vùng giải phóng đã mở rộng tới sát Sài Gòn.Ở đồng bằng Nam Bộ, nông dân
nổi dậy mở thêm nhiều vùng, nhiều lõm giải phóng, nối các vùng giải phóng thành
thế liên hoàn liên xã, liên huyện.
Thắng
lợi của phong trào nông dân nổi dậy và cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972
đã làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh ở miền Nam và tiến tới
"Tổng tấn công" mùa Xuân năm 1975 giành trọn vẹn thắng lợi, đất nước
thống nhất, Nam - Bắc sum họp một nhà.
Từ
ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Nông hội đã phát triển đều khắp, tích
cực vận động nông dân thi hành chính sách của Đảng và Nhà nước ở nông thôn, góp
phần đẩy mạnh phong trào thủy lợi, phát triển sản xuất, làm nghĩa vụ đối với
Nhà nước, tăng cường đoàn kết trong nông dân, xây dựng chính quyền, giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự xã hội ở nông thôn. Tuy nhiên, công tác Nông hội có nơi
chưa có chuyển biến mạnh mẽ gắn liền với nhiệm vụ cải tạo và phát triển nông
nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Các cấp ủy chưa chú trọng xây
dựng tổ chức Nông hội và chưa chỉ đạo thật chặt chẽ công tác Nông hội. Thực
hiện Nghị quyết Đại hội IV của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ Hai (khóa
IV) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 12/12/1977, Ban Bí thư đã ra Chỉ
thị số 24 – CT/TW về việc Tăng cường công tác Nông hội ở các tỉnh miền Nam.
4. Hội Nông dân Việt Nam
trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Phát
huy vai trò của tổ chức Hội Nông dân trong sự nghiệp cách mạng và tiến tới Đại hội đại biểu nông dân toàn quốc,
Đảng và Nhà nước đã nhiều văn bản chỉ đạo đối với giai cấp nông dân Việt Nam,
như:
Ngày
18/9/1974, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 209 – CT/TW về tổ chức
Đại hội Đại biểu nông dân tập thể các cấp.
Ngày
11/10/1974, Ban Bí thư ra Thông báo số 16 – TB/TW về việc thành lập Ban Trù bị
Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương. Nhưng biên chế vẫn gắn với Ban Nông
nghiệp Trung ương.
Ngày
25/6/1979, Ban Bí thư ra Công văn số 156 – CV/TW, quyết định tách Ban Trù bị
Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương (trước đây nằm trong Ban Nông
nghiệp Trung ương) thành một cơ quan riêng trực thuộc Ban Bí thư, thuộc hệ
thống các đoàn thể quần chúng.
Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung
ương có nhiệm vụ vừa thường xuyên chỉ đạo phong trào thực hiện những nhiệm vụ
chính trị của Đảng, vừa giúp Ban Bí thư chuẩn bị Đại hội nông dân toàn quốc.
Ban Bí thư chỉ định 3 đồng chí: Ngô Duy Đông làm Trưởng ban, 2 đồng chí Phó ban:
Nguyễn Thành Thơ, Nguyễn Công Huế (Phó ban thường trực), đồng chí Lê Du là Ủy
viên.
Ngày
27/9/1979, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 78 – CT/TƯ về việc tổ chức Hội Liên hiệp
nông dân tập thể Việt Nam.
Để
phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và đoàn kết nông dân lao động, đưa
nông thôn nước ta tiến lên CNXH, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập tổ chức
thống nhất của nông dân lao động trong cả nước, có hệ thống từ Trung ương đến
cơ sở, lấy tên là Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Chỉ thị khẳng định Hội
Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân
lao động trong cả nước, Hội có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết nông dân để giáo dục,
vận động nông dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta,
hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
nông nghiệp miền Nam, đưa nông thôn tiến lên CNXH. Hội kết nạp tất cả nông dân
hăng hái phấn đấu vào con đường làm ăn tập thể XHCN, theo nguyện tắc tự nguyện.
Hội
Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam
được thành lập có ý nghĩa chính trị to lớn. Sau nhiều năm không có tổ chức Hội
(ở miền Bắc) nay giai cấp nông dân cả nước có tổ chức thống nhất từ Trung ương
xuống cơ sở.
Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nông nghiệp nước ta chưa có những chuyển
biến tích cực. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp trong thời gian qua nay không còn
phù hợp. Những hạn chế của nó đã dẫn đến những biểu hiện suy thoái trong phát
triển sản xuất, những dấu hiệu khủng hoảng, bất hợp lý bộc lộ ngày càng rõ, đời
sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Tổ
chức Hội Nông dân cũng ngày càng được Đảng quan tâm hơn, ngày 29/9/1981, Ban Bí
thư ra Chỉ thị số 116 – CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối
với tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam.
Về tổ
chức Hội, Ban Bí thư quy định: “Ở Trung
ương, tỉnh, huyện thành lập Hội đồng của Hội Liên hiệp nông dân
tập thể ở từng cấp; cơ quan của Hội đồng gắn với Ban Nông nghiệp của Đảng, là
một bộ phận của Ban Nông nghiệp Trung ương, Ban Nông nghiệp tỉnh, thành phố. Ở
cấp huyện, cử đồng chí thường vụ cấp ủy Đảng phụ trách nông nghiệp trực tiếp
làm chủ tịch Hội đồng nông dân tập thể ở huyện và một số cán bộ có chất lượng
giúp việc làm những nhiệm vụ thường trực của Hội đồng nông dân tập thể huyện”. Đồng
thời, quyết định cho ban hành Điều lệ Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam
quy định rõ tính chất, mục đích, nhiệm vụ của Hội và tổ chức Hội ở các cấp và
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt
Nam.
Ngày 20/12/1982, Ban Bí thư ra
Thông tri số 22 – TT/TW quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể toàn quốc.
Ngày
13/02/1984, Ban Bí thư ra Thông báo số 32 – TB/TW về việc mở Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.
Ngày
10/3/1984, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Công văn số 326 – CV/TW về hướng dẫn
công tác chuẩn bị và tổ chức Đại hội đại biểu nông dân tập thể các cấp và đại
hội toàn quốc Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam.
Từ
ngày 28/5 - 31/5/1984, tại Hậu Giang,
Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể toàn quốc đã tổ chức họp với 39/40
tỉnh, thành trong cả nước để sơ kết Đại hội các cấp chuẩn bị Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.
Ngày 22/6/1984, Ban
Bí thư ra Thông tri số 45 – TT/TW, về tổ chức của Hội Liên hiệp nông dân tập
thể Việt Nam. Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam là một tổ chức quần chúng
rộng rãi của nông dân lao động do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Địa bàn hoạt
động chủ yếu của Hội là cơ sở. Cơ quan của Hội các cấp là Hội đồng Hội Liên
hiệp nông dân tập thể. Tổ chức cơ sở của Hội là Hợp tác xã quy mô toàn xã, xã
viên là hội viên, được kết nạp tập thể. Ở cấp huyện do đồng chí huyện ủy phụ
trách nông nghiệp làm Chủ tịch; ở cấp tỉnh, thành phố do Trưởng hoặc Phó Ban
Nông nghiệp làm Chủ tịch. Hội đồng sử dụng bộ máy của Ban Nông nghiệp tỉnh,
thành làm thường trực của Hội. Ở Trung ương do đồng chí Trưởng ban Nông nghiệp
Trung ương làm Chủ tịch. Hội đồng sử dụng bộ máy của Ban Nông nghiệp Trung ương
làm thường trực Hội. Chuyển Ban Chấp hành của Hội ở các cấp thành Hội đồng.
Để
thống nhất quan điểm, nhận thức về vị trí, vai trò, tổ chức hoạt động của Hội
Nông dân tập thể, đồng thời chuẩn bị tốt hơn về mọi mặt cho Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam. Từ ngày 26/4 –
28/4/1986, tại thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Sơn Bình, Ban Nông nghiệp Trung ương đã
tổ chức hội nghị các Trưởng ban Nông nghiệp và Chủ tịch Hội Nông dân tập thể
các tỉnh, thành phố dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Bí thư
Trung ương Đảng, cùng các đồng chí Vũ Oanh, Dương Quốc Cẩm.
Quán triệt tinh thần đổi mới theo nội dung Nghị quyết Đại hội VI của
Đảng, nhằm đẩy mạnh hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam, ngày
24/3/1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 05/CT-TW về Tổ chức Hội
Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất
của Hội.
Ngày
01/3/1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 42 – QĐ/TW về việc
đổi tên Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội Nông dân Việt Nam.
Tại
phiên họp ngày 17/01/1991, Bộ Chính trị đã đồng ý lấy ngày 14 tháng 10 năm 1930 làm
Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam.
Ngày
20/5/1991, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 69 – CT/TƯ về việc Tổ
chức kỷ niệm 61 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 –
14/10/1991). Lần đầu tiên Hội Nông dân Việt Nam tổ chức mít tinh kỷ niệm trọng
thể 61 năm Ngày thành lập tại Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư Đỗ Mười tới dự và có
bài phát biểu quan trọng.
Nhân
dịp kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 –
14/10/2000), Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã quyết định tổ chức cuộc thi
sáng tác Biểu trưng mới và Bài hát chính thức của Hội Nông dân Việt Nam, sau
một thời gian phát động Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã chọn Biểu trưng mới
của Hội do họa sỹ, Thạc sỹ Nguyễn Phúc Khôi, Phó Giám đốc Sở Văn hóa – Thông
tin (nay là Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch) tỉnh Ninh Bình sáng tác. Biểu
trưng mới của Hội được chính thức sử dụng từ ngày 14/10/2001 theo Quyết định số
106 – QĐ/HND, ngày 20/9/2001 của Ban Thường vụ Trung ương Hội Nông dân Việt
Nam. Bài hát chính thức của Hội Nông dân Việt Nam là Bài ca nông dân Việt Nam do
nhạc sỹ Phạm Tịnh – Hội Nhạc sỹ Việt Nam sáng tác và được sử dụng từ ngày
01/9/2003 theo Quyết định số 447 – QĐ/HND, ngày 25/8/2003 của Ban Thường vụ
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Ngoài
ra Hội Nông dân Việt Nam còn tổ chức nhiều hoạt động có tính chất toàn quốc 5
năm một lần, như Hội thi Nhà nông đua tài; Hội nghị Nông dân sản xuất, kinh
doanh giỏi; Đại hội thi đua yêu nước và Biểu dương nông dân điển hình tiên
tiến. Hàng năm Trung ương Hội tổ chức tôn vinh nông dân Việt Nam xuất sắc cả
nước; tôn vinh sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu...
Tại Lễ
Kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 – 14/10/2010),
giai cấp nông dân Việt Nam đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân Chương Sao Vàng (lần 2).
Đến nay, Hội Nông dân Việt Nam đã qua 7 kỳ
Đại hội:
* Đại
hội đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt
Nam lần thứ Nhất, nhiệm kỳ 1988
– 1993, được tổ chức từ ngày 28/3
- 29/3/1988 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội.
Tham
dự Đại hội có 613 đại biểu thay mặt cho 11.188.789 hội viên của cả nước. Đại
hội đã được đón tiếp các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước: Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh, Chủ tịch Quốc Hội Trường Chinh, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí
Công, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, cùng nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể Trung ương, Đoàn đại biểu
nước ngoài, gồm: Liên Xô, Lào, Cămpuchia, Tiệp Khắc, Cu Ba, Mông Cổ, Đức,
Rumani; các cơ quan thông tấn báo chí trong và ngoài nước.
Đại
hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 95 đồng chí và bầu 17 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng
chí Phạm Bái - Ủy viên Trung ương Đảng được bầu giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Hoàng Hồng Thất,
Nguyễn Thành Thơ, Cầm Ngoan, Nguyễn Thị Huệ.
Tại
kỳ họp Ban Chấp hành Trung Hội Nông dân Việt Nam lần thứ 6 (khóa I) tại Hà Nội,
từ ngày 30/10 – 02/11/1991 đã cử đồng chí Hoàng Hồng Thất, Phó Chủ tịch Thường
trực làm Quyền Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội thay đồng chí Phạm Bái
nghỉ hưu.
Từ
ngày 02/6 /- 05/6/1992, Ban Chấp hành
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam họp lần thứ 7 (khóa I) tại Hà Nội, đã bầu đồng
chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) - Ủy viên Trung ương Đảng giữ chức Chủ tịch Ban
Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Nghị
quyết của Đại hội đã khẳng định: Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị -
xã hội rộng lớn của giai cấp nông dân, đoàn
kết chặt chẽ với các tổ chức thành viên khác trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
quyết tâm tiến theo con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam đề ra.
Đại hội đại biểu toàn quốc Hội
Nông dân Việt Nam lần thứ Nhất là sự kiện chính trị trọng đại, đã đánh dấu một
mốc son quan trọng trên chặng đường lịch sử vẻ vang gần 6 thập kỷ, mở ra giai
đoạn phát triển mới của phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam, từ đây,
một tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân chính thức được
thành lập, có hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ Trung ương đến cơ sở. Sự kiện quan
trọng này một lần nữa khẳng định những quan điểm cơ bản của Đảng về vị trí, vai
trò của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam.
Tại Đại hội này, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước –
Võ Chí Công thay mặt Đảng, Nhà nước đã trao tặng Huân chương Sao Vàng,
Huân chương cao quý nhất cho giai cấp nông dân Việt Nam.
* Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Hội Nông dân Việt Nam, nhiệm kỳ 1993 – 1998, họp từ ngày 15/11 –
19/11/1993 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội (Đại hội nội bộ từ ngày 15/11 –
17/11/1993; Đại hội chính thức từ ngày 18/11 – 19/11/1993)
Dự
Đại hội có 600 đại biểu đại diện cho 7.269.982 hội viên. Đại hội đã được đón
tiếp các đồng chí Đỗ Mười Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Thủ tưóng
Chính phủ Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh; các đồng chí cố vấn Ban
Chấp hành Trung ương Đảng: Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công, đồng chí lão thành cách
mạng Đại tướng Võ Nguyên Giáp; đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bộ, ban,
ngành Trung ương, các cơ quan thông tấn báo chí …Đại hội đã bầu 77 đồng chí vào
Ban Chấp hành và 14 Ủy viên Ban Thường vụ, đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần)
- Ủy viên Trung ương Đảng được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương
Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Nguyễn Đức Triều - Ủy viên Trung
ương Đảng, Nguyễn Thị Huệ.
Trong
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ 2 (khóa II), họp từ ngày 01/3 –
03/3/1994 tại TP. Hồ Chí Minh đã bầu bổ sung đồng chí Lò Văn Inh, nguyên Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu giữ chức Phó Chủ tịch Trung ương Hội Nông
dân Việt Nam.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam
lần thứ 6 (khóa II), họp tại Hà Nội từ ngày 09/01 – 11/01/1997, đã bầu đồng chí
Nguyễn Đức Triều - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Thường trực giữ chức
Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) được
Bộ Chính trị bố trí công tác mới. Cũng tại Hội nghị này đồng chí Mai Thanh Ân,
Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Hội được bầu giữ chức Phó Chủ tịch Trung ương
Hội Nông dân Việt Nam.
Đại hội đã đánh giá phong trào nông dân, công tác xây dựng
Hội; phương hướng, nhiệm vụ của Hội 5 năm tiếp theo, thông qua Điều lệ (sửa
đổi) Hội Nông dân và thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II
Hội Nông dân Việt Nam.
Đây
là Đại hội “Đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động”, là Đại
hội của trí tuệ và niềm tin, nơi hội tụ ý chí và nguyện vọng của giai cấp nông
dân quyết tâm đổi mới và xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt.
* Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Hội Nông dân Việt Nam, nhiệm kỳ 1998 – 2003, họp từ ngày 17/11 – 20/11/1998 tại Cung Văn hóa Hữu nghị,
Hà Nội (ngày 17 – 18/11 họp nội bộ; ngày 19 – 20/11 họp chính thức).
Tham
dự Đại hội có 700 đại biểu thay mặt cho 7.215.544 hội viên, nông dân. Đại hội
đã vinh dự được đón các đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, các đồng chí nguyên
cố vấn, cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công; Đỗ
Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt; Chủ tịch Nước Trần Đức Lương; Chủ tịch Quốc hội
Nông Đức Mạnh; Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; Thường trực Ban Bí thư
Phạm Thế Duyệt; Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trần
Văn Đăng; đại diện một số tổ chức nông dân quốc tế; đại diện các bộ, ban, ngành, các cơ quan thông
tấn báo chí …
Đại
hội đã quán triệt nhiệm vụ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn. Đại hội đã bầu 114 Ủy viên Ban Chấp hành, 19 Ủy viên Ban Thường vụ.
Đồng chí Nguyễn Đức Triều - Ủy viên Trung ương Đảng được bầu lại giữ chức Chủ
tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch:
Hoàng Diệu Tuyết, Lê Văn Nhẫn, Lê Văn Sang (Hùng Kháng).
Đại
hội III có nhiệm vụ tiếp tục đổi mới và phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Hội, tổ chức,
động viên giai cấp nông dân phát huy nội lực, cần kiệm xây dựng đất nước, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Tại
Đại hội này thay mặt Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Nước Trần Đức Lương đã trao tặng Huân
chương Độc lập hạng Nhất cho phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt
Nam.
Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ 8 (khóa III), họp từ ngày 28/01 –
29/01/2002 tại Hà Nội đã bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Hữu Mai, nguyên Phó Bí thư
Thường trực tỉnh ủy Quảng Nam giữ chức Phó Chủ tịch Trung ương Hội.
Tại
kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ 11 (khóa III), từ ngày 17/6 – 18/6//2003
tại Hà Nội đã bầu bổ sung đồng chí Phạm Quang Tôn, Ủy viên Ban Thường vụ Trung
ương Hội, đồng chí Lê Hoàng Minh, nguyên Trưởng ban Dân vận, Chủ tịch Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bạc Liêu giữ chức Phó Chủ tịch Trung ương Hội Nông dân
Việt Nam.
* Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV Hội Nông dân Việt Nam, nhiệm kỳ 2003 – 2008, được tổ chức từ ngày 22/11 – 25/11/2003 tại Cung
Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Đây là Đại
hội ''Đoàn
kết - Đổi mới - Dân chủ - Phát triển''.
Tham dự Đại hội có 860 đại biểu
đại diện cho 8.173.238 hội viên cả nước. Đại hội đã vinh dự được đón tiếp các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước: Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; nguyên Tổng Bí thư
Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu; Chủ tịch Nước Trần Đức Lương; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Văn An; Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải; đồng chí lão thành cách mạng Đại tướng
Võ Nguyên Giáp; các đồng chí đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các bộ,
ban, ngành, các cơ quan thông tấn báo
chí… Đại hội đã bầu 120 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng
chí Vũ Ngọc Kỳ - Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang được
bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí
Phó Chủ tịch: Hoàng Diệu Tuyết, Phạm Quang Tôn, Nguyễn Hữu Mai, Lê Hoàng Minh,
Hà Phúc Mịch.
Đại hội đã vinh dự được Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tặng bức trướng mang dòng chữ: “Giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam đoàn kết, sáng tạo, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”
Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ 8 (khóa IV), ngày 26/02/ 2007 tại Hà
Nội đã bầu đồng chí Nguyễn Quốc Cường - Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tài
chính - Quản trị Trung ương, Bí thư Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam làm Chủ
tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Chủ tịch Vũ
Ngọc Kỳ nghỉ hưu.
* Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ V Hội Nông dân Việt Nam, nhiệm kỳ 2008 – 2013, họp từ ngày 22/12 – 25/12/2008
tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 1.175 đại biểu đại diện cho
9.563.577 hội viên. Đại hội đã được đón tiếp các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà
nước: Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết; Chủ tịch Quốc
hội Nguyễn Phú Trọng; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng; Đại hội đã bầu 124 Ủy viên Ban
Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường - Ủy viên
Trung ương Đảng tái đắc cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông
dân Việt Nam. Các đồng chí Phó Chủ tịch: Bùi Thị Minh Hoài - Ủy viên dự khuyết
Trung ương Đảng, Lê Hoàng Minh, Hà Phúc Mịch, Nguyễn Duy Lượng, Lều Vũ Điều.
Chủ
đề của Đại hội V là: ''Đoàn
kết - Đổi mới - Hội nhập - Phát triển''.
Đồng thời Đại hội đã xác định phương hướng là: “Đoàn kết, năng
động, sáng tạo, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh, là chủ thể trong quá
trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; Hội Nông dân vững về chính trị, mạnh
về tổ chức, thống nhất về hành động, là trung tâm và nòng cốt trong phong trào
nông dân, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới trong thời kỳ đất nước
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới;
tham gia có hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh và khối
đại đoàn kết dân tộc. Nâng cao vai trò đại diện; chăm lo nâng cao đời sống; bảo
vệ lợi ích hợp pháp của hội viên, nông dân, góp phần cùng cả nước thực hiện
thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đồng
thời tiếp tục đẩy mạnh 3 phong trào thi đua lớn của Hội, là: Phong trào nông
dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói giảm nghèo và
làm giàu chính đáng; Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới; Phong
trào nông dân tham gia bảo đảm quốc phòng, an ninh góp phần thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Đại
hội đã vinh dự được Ban Chấp hành Trung ương Đảng tặng bức trướng mang dòng
chữ: “Giai
cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam đoàn kết, đổi mới, hội nhập và phát triển,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn”
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,
tháng 4/2011 đồng chí Bùi Thị Minh Hoài, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
được chuyển công tác giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Hội lần thứ 9 (khoá V) họp tại Hà Nội từ ngày 04/7 – 05/7/2012 đã bầu
bổ sung 02 đồng chí Phó Chủ tịch Trung ương Hội là đồng chí Lại Xuân Môn, Chánh
Văn phòng Trung ương Hội Nông dân Việt Nam và đồng chí Nguyễn Hồng Lý, nguyên Trưởng
ban Dân vận Tỉnh uỷ tỉnh Bạc Liêu.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
Hội Nông dân Việt Nam, nhiệm kỳ 2013 – 2018,
được tổ
chức từ ngày 30/6 – 03/7/2013 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà
Nội.
Đây là Đại hội của tinh thần: “Đoàn kết – Đổi mới – Chủ động – Hội nhập – Phát triển bền vững”.
Tham dự Đại hội có 1.169 đại biểu thay mặt cho
9.913.432 hội viên, nông dân cả nước. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch Nước Trương
Tấn Sang; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng; Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn
Dũng, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Huỳnh Đảm, đại diện các bộ, ban, ngành,
các cơ quan thông tấn báo chí. Đại hội đã bầu 122 Ủy viên Ban Chấp hành và 21
Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường - Ủy viên Trung ương Đảng
được tái cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Các đồng chí Phó Chủ tịch: Nguyễn Duy Lượng, Lều Vũ Điều, Nguyễn Hồng Lý, Lại
Xuân Môn.
Phương hướng Đại hội VI là: “Phát huy tinh thần “Đoàn kết - đổi mới -
chủ động - hội nhập - phát triển bền vững”, vai trò trung tâm và nòng cốt cho
phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới; tiếp tục thực hiện Kết
luận số 62 - KL/TW, ngày 08/12/2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội;
đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động theo hướng kết hợp chặt chẽ công tác tập
hợp, tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân, tham gia xây dựng cơ chế, chính
sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; giám sát, phản biện xã hội và
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
với đẩy mạnh hợp tác tăng cường các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ và dạy
nghề, đáp ứng nhu cầu và lợi ích thiết thực của hội viên, nông dân. Trực tiếp
và phối hợp thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án phát triển kinh tế,
văn hóa - xã hội ở nông thôn. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân
Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai
cấp Nông dân Việt Nam vững mạnh; đào tạo người nông dân có trình độ sản xuất
ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ bản lĩnh chính trị, giữ
vai trò chủ thể trong phát triển nông nghiệp, nông thôn”.
Tiếp
tục đẩy mạnh 3 phong trào thi đua lớn của Hội, là: Phong trào nông dân
thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo
bền vững; Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông
thôn mới; Phong trào nông dân tham gia bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ thứ 8
(khóa VI), họp ngày 24/6/2016 tại Hà Nội đã bầu đồng chí Lại Xuân Môn - Ủy viên
Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Thường trực giữ chức Chủ tịch BCH Trung ương Hội
Nông dân Việt Nam thay đồng chí Nguyễn Quốc Cường được Bộ Chính trị cho nghỉ hưu;
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ thứ 8 (khóa VI), họp ngày
24/6/2016 tại Hà Nội đã bầu đồng chí Lương Quốc Đoàn, Ủy viên Ban Thường vụ giữ
chức Phó Chủ tịch BCH Trung ương Hội Nông dân Việt Nam; Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Hội lần thứ thứ 9 (khóa VI), họp ngày 24/7/2017 tại Hà Nội đã bầu
đồng chí Phạm Tiến Nam, Ủy viên Ban Thường vụ giữ chức Phó Chủ tịch BCH Trung
ương Hội Nông dân Việt Nam.
Tại Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam lần thứ 13 (Khóa VI), họp
ngày 12/01/2018, tại Hà Nội đã bầu đồng chí Thào Xuân Sùng, Phó Trưởng Ban
Thường trực Ban dân vận Trung ương Đảng giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung
ương Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Lại Xuân Môn được Bộ Chính trị bố trí
công tác mới; Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ 14 (khóa VI), họp
10/4/2018 tại Hà Nội đã bầu đồng chí Đinh Khắc Đính, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân
dân tỉnh Thừa Thiên Huế giữ chức Phó Chủ tịch BCH Trung ương Hội Nông dân Việt
Nam.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII Hội Nông dân Việt Nam, nhiệm kỳ 2018 – 2023, được tổ chức từ ngày 11 – 13/12/2018 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia,
Mỹ Đình - Hà Nội.
Đây là Đại hội của tinh thần: “Dân chủ - Đoàn kết – Đổi mới– Hội nhập – Phát triển”.
Tham dự Đại hội có 999 đại biểu đại diện cho 10.192.865
hội viên. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước:
Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim
Ngân; Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, đại diện các ban, bộ, ngành, các
tỉnh ủy, thành ủy, các cơ quan thông tấn báo chí. Đại hội đã bầu 119 uỷ viên
Ban Chấp hành; Hội nghị lần thứ nhất Ban
Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khoá VII họp ngày 12/12/2018 tại Hà Nội đã bầu 21 uỷ
viên Ban Thường vụ; đồng chí Thào Xuân Sùng, Uỷ viên Trung ương Đảng tái đắc cử
giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam. Các đồng chí Phó
Chủ tịch: Lương Quốc Đoàn, Phạm Tiến Nam, Đinh Khắc Đính tái đắc cử; đồng chí
Bùi Thị Thơm, Nguyễn Xuân Định được bầu bổ sung; Hội nghị đã bầu Chủ nhiệm và
các ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Phương hướng
Đại hội VII là: Xây dựng Hội Nông dân Việt Nam trong sạch, vững mạnh, phát
huy vai trò của Hội và giai cấp nông dân trong phát triển nông nghiệp thịnh
vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại. Hội Nông dân Việt Nam
cần nắm chắc nguyên tắc liên minh công nông, tiếp tục đổi mới toàn diện và mạnh
mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Hội theo hướng giải quyết tốt lợi ích
thiết thân của hội viên, nông dân, luôn dựa vào nông dân, vì nông dân; kết hợp
chặt chẽ phương pháp vận động,tuyên truyền miệng với phương pháp tổ chức có
hiệu quả các hoạt động dịch vụ, tư vấn, đào tạo nghề, hỗ trợ hội viên, nông dân
sản xuất, kinh doanh; vận động hội viên, nông dân thực hiện có hiệu quả Đề án
tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển và nâng
cao chất lượng hội viên.
Tiếp
tục đẩy mạnh Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết
giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững.
Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (Khóa VII) họp
tại Hà Nội từ ngày 22-23/7/2019 đã thông qua ba Nghị quyết về xây dựng Hội: Nghị
quyết số 04 NQ/HNDTW “về đẩy mạnh xây
dựng Chi Hội Nông dân nghề nghiệp, Tổ Hội Nông dân nghề nghiệp”; Nghị quyết
số 05 NQ/HNDTW “về tăng cường công tác
phát triển, quản lý và nâng cao chất lượng hội viên Hội Nông dân Việt Nam”;
“Nghị quyết số 06 NQ/HNDTW “về nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ Hội Nông dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
thời kỳ mới”.
PHẦN II
TUYÊN TRUYỀN VỀ TỔ CHỨC HỘI VÀ
PHONG TRÀO NÔNG DÂN
TỈNH HÀ NAM
Cùng với sự ra đời, phát triển
của tổ chức Hội Nông dân Việt Nam, Hội Nông dân tỉnh Hà Nam cũng
sớm được hình thành và có những đóng góp to lớn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước. Đến
nay tổ chức Hội Nông dân tỉnh được hình thành và phát triển ở 112 xã, phường,
thị trấn với (721 chi hội, gồm 654 chi hội thôn, xóm; 67 chi, tổ hội nghề
nghiệp), tổng số 181.760 hội viên, tỷ lệ thu hút đạt 92,34 % số hộ nông
thôn toàn tỉnh và chiếm 66,25% số lao động nông nghiệp. Từ khi
thành lập đến nay Hội Nông dân tỉnh Hà Nam đã trải qua 10 kỳ Đại hội đại biểu, đó là những mốc son, đánh dấu sự phát triển và trưởng
thành, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao trong từng thời kỳ.
* Đại hội đại biểu Nông dân
tập thể tỉnh Hà Nam Ninh lần thứ I, nhiệm kỳ 1976 – 1983, được tổ chức từ ngày 15 - 19/10/1976 tại thành phố Nam Định.
Thực hiện Chỉ thị 209/CT-TƯ, ngày
18/9/1974 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “về
tổ chức Đại hội đại biểu Nông dân tập thể các cấp”, từ ngày 15-19/10/1976 Hội
đồng Nông dân tập thể tỉnh tổ chức Đại hội đại biểu Nông dân tập thể tỉnh Hà
Nam Ninh lần thứ nhất được tổ chức tại Thành phố Nam Định.
Tham dự Đại hội có
350 đại biểu thay mặt cho trên 1,0 triệu nông dân, xã viên hợp
tác xã trong toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Hội đồng Nông dân
tập thể tỉnh gồm 35 đồng chí. Ban Thường trực Hội đồng gồm 8 đồng chí; Đồng chí
Trần Tính được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng, đồng chí Trần Văn Tuyên và đồng
chí Phạm Văn Chương được bầu giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng, đồng chí Hoàng Tân
là Thường trực Hội đồng.
Đại
hội xác định phương hướng nhiệm vụ phong trào nông dân và Hội Nông dân trong
giai đoạn cách mạng mới là: “Nông dân tập thể Hà Nam Ninh phấn đấu đưa nông nghiệp
phát triển vượt bậc, tiến lên theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”.
Đại
hội đại biểu Hội Nông dân tập thể tỉnh kết thúc thắng lợi đánh dấu sự quan tâm
của Đảng, chính quyền các cấp trong việc củng cố tổ chức Hội và vai trò của
giai cấp nông dân trong giai đoạn cách mạng mới.
Ngày
27/9/1979 Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 78- CT/TW về tổ chức Hội
Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam, quy định chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc,
tổ chức và hệ thống tổ chức gồm 4 cấp, lấy xã làm đơn vị cơ sở. Chỉ thị khẳng
định: “Hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng rãi
của nông dân lao động trong cả nước. Hội có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết nông dân
để giáo dục, vận động nông dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam, đưa nông thôn tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, có nhiệm vụ cùng với tổ chức Công đoàn xây dựng khối liên minh công
- nông vững chắc làm cơ sở cho mặt trận
Tổ quốc. Hội kết nạp tất cả nông dân hăng hái phấn đấu vào con đường làm ăn tập
thể xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc tự nguyện”.
Thực hiện
Chỉ thị của Ban Bí thư, ngày 28/3/1980 Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Chỉ thị số 06
về việc thực hiện Chỉ thị số 78 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Thực hiện Chỉ thị
số 06 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Hội đồng Nông dân tập thể tỉnh tổ chức Hội
nghị đại biểu toàn tỉnh vào ngày 10-11/4/1980
để đổi tên Hội thành Hội liên hiệp Nông dân tập thể tỉnh Hà Nam Ninh và thành
lập Ban Chấp hành lâm thời trên cơ sở số Uỷ viên Ban Chấp hành cũ. Thường trực
gồm 8 đồng chí, đồng chí Phạm Văn Chương được cử giữ chức chủ tịch Hội, các
đồng chí Vũ Thị Tâm, Trần Văn Tuyên được cử giữ chức Phó chủ tịch Hội. (Đến
Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Hà Nam lần thứ V nhất trí đánh giá và coi Hội
nghị tháng 4/1980 là một kỳ Đại hội).
Nhiệm
vụ chủ yếu của Hội trong giai đoạn này là: “Vận động nông dân tiến hành đồng
thời 3 cuộc cách mạng: Cách mạng tư tưởng văn hoá, cách mạng khoa học kỹ thuật,
cách mạng quan hệ sản xuất ở nông thôn; trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là
then chốt”.
*Đại
hội đại biểu Hội Liên hiệp Nông dân tập thể tỉnh Hà Nam ninh lần thứ II, nhiệm
kỳ 1983-1987, được tổ chức từ ngày 16- 18/11/1983 tại thành
phố Nam Định.
Tham dự Đại hội có
333 đại biểu thay mặt cho hơn 80 ngàn hội viên về dự. Đại hội đã
bầu ra 35 đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Nông dân tập thể, 08
đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ tỉnh Hội; Đồng chí Phạm Văn Chương được bầu giữ
chức Chủ tịch Hội, các đồng chí Vũ thị Tâm, Trần Văn Tuyên được bầu giữ chức
Phó chủ tịch Hội.
Đại
hội đề ra phương hướng nhiệm vụ chung là: “Ra sức tuyên truyền, giáo dục động
viên giai cấp nông dân tập thể phát huy lòng yêu nước yêu Chủ nghĩa xã hội,
tinh thần làm chủ tập thể, nêu cao ý thức tự lực, tự cường, tinh thần chủ động
sáng tạo, khắc phục khó khăn, dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất,
tiết kiệm, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, quyết tâm thực hiện các mục
tiêu kinh tế xã hội trong kế hoạch 5 năm lần thứ 3, củng cố và hoàn thiện quan
hệ sản xuất mới, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước, thực hiện tốt mối quan hệ công
- nông liên minh, đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, xây dựng nông thôn mới, con người
mới xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa”.
* Đại hội đại biểu Hội Nông
dân tập thể Hà Nam Ninh lần thứ III, nhiệm kỳ 1987-1992, được tổ chức từ ngày 11/7/1987 tại thành phố Nam Định.
Tham dự Đại hội có
247 đại biểu về dự. Đại hội đã bầu ra 39 Uỷ viên Ban chấp hành, 9
đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ. Đồng chí Đỗ thị Hồng Rây được bầu giữ chức Chủ
tịch Hội, đồng chí Phạm Thanh Dưỡng giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm là: “Ra sức
xây dựng Hội Nông dân tập thể vững mạnh, vận động nông dân thực hiện những
nhiệm vụ, mục tiêu của Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, tập trung vào các chương trình
kinh tế xã hội là: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, dân
số và lao động. Tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng ở nông thôn; ra sức thi
đua lao động, sản xuất, tiết kiệm; vừa làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước, vừa
đảm bảo quyền lợi của nông dân, đấu tranh chống tiêu cực, bất công và các tệ
nạn xã hội; tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị,
chống âm mưu phá hoại nhiều mặt của địch, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ
nghĩa, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước”.
Mục
tiêu phấn đấu trong nhiệm kỳ là: Có 40-50% số cơ sở hoạt động khá, giỏi, thực
hiện được 4 phong trào, 5 nhiệm vụ. 70% số hội viên phấn đấu đạt danh hiệu “
Hội viên tiên tiến theo tiêu chuẩn “5 việc của hội viên”.
Tháng
10/1988 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Tô Xuân Giám giữ chức Phó Chủ tịch
Hội.
* Đại hội đại biểu Hội Nông
dân Việt Nam tỉnh Nam Hà lần thứ V, nhiệm kỳ 1992-1998, được tổ chức từ ngày 22 - 24/4/1992 tại
thành phố Nam định.
Thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TU ngày 13/01/1992 của Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh Hà Nam Ninh về việc “ Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện việc chia
tách tỉnh Hà Nam Ninh, thành lập hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ và
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Nam Hà
lần thứ V được tổ chức từ ngày 22-24/4/1992 tại thành phố Nam định.
Tham dự Đại hội có 245 đại biểu
thay mặt cho hơn 52 vạn hội viên về dự. Đại
hội đã bầu 27 đồng chí là uỷ viên Ban Chấp hành; 7 đồng chí Uỷ viên Ban Thường
vụ; đồng chí Tô Xuân Giám được bầu giữ chức Chủ tịch Hội, các đồng chí Phạm Bá
Ninh và đồng chí Nguyễn Thị Kim Dung giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại
hội đề ra mục tiêu tổng quát của hội là: “Xây dựng tổ chức hội vững mạnh, động
viên nông dân đẩy mạnh sản xuất, làm giàu, đoàn kết, dân chủ, xóa đói giảm
nghèo, xây dựng nông thôn mới”.
Thực
hiện Nghị quyết 02-NQ/TU ngày 02/12/1996 của Ban Chấp hành Tỉnh uỷ Nam Hà về
việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chia tách địa giới hành chính tỉnh Hà Nam và
Nam định. Ngay sau khi tái lập tỉnh, Ban Chấp hành lâm thời Hội Nông dân tỉnh
Hà Nam (gồm 9 đồng chí do đồng chí Phạm Bá Ninh giữ chức Chủ tịch Hội, đồng chí
Nguyễn thị Dung giữ chức Phó chủ tịch Hội) sớm ổn định tổ chức và triển khai
các nhiệm vụ công tác Hội và phong trào nông dân đến các cấp hội trong toàn
tỉnh và đạt được kết quả đáng ghi nhận. Toàn tỉnh đến đầu năm 1997 có 6 huyện,
thị Hội, 110 cơ sở Hội và 1308 chi, trong đó có 1247 chi theo thôn xóm và 61
chi hội nghề nghiệp. Số hộ nông dân có hội viên là 89.401 hộ, chiếm 52,1% so
tổng số hộ nông dân. Năm 1997 kết nạp được 7.805 hội viên, nâng tổng số Hội
viên toàn tỉnh cuối năm 1997 lên 97.206 hội viên; trong đó có 11.500 hội viên
là Đảng viên, chiếm 37,5% so tổng số Đảng viên nông thôn; có 931 chi hội có quỹ
hội, chiếm 71,2% so tổng số chi hội; 108/112 cơ sở có quỹ; Bình quân quỹ hội
viên là 8.320 đồng. Toàn tỉnh có 20/112 cơ sở có Quỹ Hỗ trợ nông dân.
* Đại
hội đại biểu Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Hà Nam lần thứ VI, nhiệm kỳ 1998 – 2003,
được tổ chức từ ngày 19 - 21/8/1998 tại thị xã Phủ Lý.
Tham dự Đại hội có
170 đại biểu thay mặt cho 97.206 hội viên ở ở 6 huyện, thị xã;
112 cơ sở. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 21 đồng chí, 05 đồng chí trong
Ban thường vụ; đồng chí Phạm Bá Ninh được bầu giữ chức chủ tịch Hội, đồng chí
Nguyễn Thị Kim Dung giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại hội đề ra phương hướng nhiệm kỳ 5 năm tới là:
“Tập hợp đông đảo nông dân vào tổ chức Hội, tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung
và phương thức hoạt động, xây dựng Hội vững mạnh về mọi mặt, thực sự làm nòng
cốt trong phong trào nông dân. Phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của nông dân
trong phong trào phát triển kinh tế - xã hội nông thôn xây dựng nông thôn mới.
góp phần tích cực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn”.
Tháng
6/2000 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Văn Hóa giữ chức Chủ tịch
Hội thay đồng chí Chủ tịch Phạm Bá Ninh nghỉ hưu.
Tháng 10/2001 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung các đồng chí
Nguyễn Thanh Nghị, Nguyễn Thị Bình giữ chức Phó chủ tịch Hội.
* Đại
hội đại biểu Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Hà Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2003 – 2008, được tổ chức từ ngày 22 - 23/4/2003 tại Trung tâm văn hóa tỉnh.
Tham dự Đại hội
có 180 đại biểu thay mặt cho 116.301 hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội
đã bầu ra BCH gồm 25 đồng chí, Ban thường vụ gồm 07 đồng chí; đồng chí Nguyễn
Văn Hóa được bầu giữ chức chủ tịch Hội, các đồng chí Nguyễn Thanh Nghị, Nguyễn
Thị Bình giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại hội đề ra mục tiêu, nhiệm vụ công tác Hội 5 năm tới
là: “Tăng cường đoàn kết thống nhất, đổi mới nội dung phương thức hoạt động.
Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh toàn diện, Hội Nông dân là trung tâm và nòng cốt
phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng quê hương Hà Nam giàu mạnh văn minh”.
Tháng
10/2005 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Kiều Hữu Bình giữ chức Chủ tịch
Hội thay đồng chí Chủ tịch Nguyễn Văn Hóa nghỉ hưu.
Tháng 8/2007 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Dương
Văn Bằng giữ chức Phó chủ tịch Hội.
* Đại
hội đại biểu Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Hà Nam lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2008 – 2013, được tổ chức từ ngày 22 - 23/4/2008 tại
thị xã Phủ lý.
Tham dự Đại hội
có 186 đại biểu thay mặt cho 135.382 hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội
đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 25 đồng chí, Ban thường vụ gồm 7 đồng chí; đồng chí
Kiều Hữu Bình được bầu giữ chức chủ tịch Hội, các đồng chí Nguyễn Thị Bình,
Dương Văn Bằng giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại hội đã đề ra 10 mục tiêu chỉ tiêu chủ yếu: (1) Trong 5
năm phát triển 30.000 hội viên mới, cuối nhiệm kỳ tỷ lệ hội viên so với lao
động nông nghiệp đạt 60%; (2) Hàng năm có 80% cơ sở Hội; 70% chi tổ Hội đạt
tiêu chuẩn vững mạnh; (3) 100% cơ sở Hội, chi tổ Hội có quỹ; (4) Hàng năm 100%
huyện, thành Hội, cơ sở Hội; 60% chi Hội có báo, tạp chí của Hội; (5) Bình quân
hàng năm có 45% hộ hội viên nông dân đạt danh hiệu sản xuất kinh doanh giỏi các cấp; (6) Tỷ lệ hội viên nghèo giảm
còn 3% (mỗi năm giảm 1,18%); (7) 100% huyện, thị và các cơ sở Hội có quỹ Hỗ trợ
nông dân và quản lý tốt các nguồn quỹ khác; (8) Đạo tạo dạy nghề và tư vấn việc
làm mỗi năm từ 10.000 lao động trở lên; (9) Có trên 80% hộ hội viên nông dân
đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”; (10) 80% chi hội nhận duy tu bảo dưỡng đường
giao thông nông thôn hoặc các công trình hạ tầng khác trong nông thôn.
Tại Lễ
Kỷ niệm 81 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 - 14/10/2011), Hội
Nông dân tỉnh Hà Nam đã vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động Hạng Ba,
phần thưởng cao quý của Nhà nước giành tặng thưởng cho các cấp Hội Nông dân
trong tỉnh và ghi nhận thành tích của cán bộ, hội viên, nông dân tỉnh nhà thời
gian qua.
Tháng
10/2008, Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Lê Thị Hồng Lạng giữ chức Chủ
tịch Hội thay đồng chí Chủ tịch Kiều Hữu Bình chuyển công tác.
* Đại
hội đại biểu Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Hà Nam lần thứ IX, nhiệm kỳ 2013 – 2018, được tổ chức từ ngày 17 - 18/4/2013,
tại Thành phố Phủ Lý.
Tham dự Đại hội có với 216 đại biểu
thay mặt cho 166.964 hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra BCH gồm 31
đồng chí, Ban thường vụ gồm 9 đồng chí; đồng chí Lê Thị Hồng Lạng được bầu giữ
chức chủ tịch Hội, các đồng chí Nguyễn Văn Đạo, Tống Văn Tam, Khổng Thị Thảo
giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại hội đề ra 3 mục tiêu: (1)Nâng cao nhận thức cho cán bộ,
hội viên, nông dân về ý thức chính trị, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý, điều hành của Chính quyền, qua đó thực hiện tốt chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; (2)Tuyên truyền thu hút
đông đảo nông dân vào Hội; xây dựng tổ chức Hội các cấp ngày càng vững mạnh;
nâng cao vai trò, vị thế của Hội thực sự xứng đáng là trung tâm, nòng cốt cho
phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới, xây dựng khối Đại đoàn
kết toàn dân tộc; (3)Tổ chức tốt 3 phong trào thi đua của Hội nhằm tạo chuyển
biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống
nông thôn trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền
vững, sản xuất hàng hóa; tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong
nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; thực hiện thành công chương
trình xây dựng nông thôn mới.
Tại Lễ
Kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 - 14/10/2015),
Hội Nông dân tỉnh Hà Nam đã vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động Hạng Nhì,
phần thưởng cao quý của Nhà nước giành tặng thưởng cho các cấp Hội Nông dân
trong tỉnh và ghi nhận thành tích của cán bộ, hội viên, nông dân tỉnh nhà trong
giai đoạn 2011 - 2015.
Tháng 9/2014 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Khổng Thị
Thảo giữ chức Chủ tịch Hội thay đồng chí Chủ tịch Lê Thị Hồng Lạng nghỉ hưu.
Tháng
9/2018 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Tạ Văn Đạt giữ chức Phó Chủ tịch
Hội
* Đại
hội đại biểu Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Hà Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2018 – 2023, được tổ chức từ ngày 4 - 5/10/2018
tại Nhà Văn hóa Trung tâm tỉnh.
Đây là Đại hội của tinh thần: “Dân
chủ - Đoàn kết – Đổi mới– Hội nhập – Phát triển”.
Tham dự Đại hội có 230 đại biểu thay
mặt cho trên 178.000 hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra BCH gồm 24
đồng chí; Ban Thường vụ gồm 06 đồng chí; đồng chí Tạ Văn Đạt được bầu giữ chức
Chủ tịch Hội, đồng chí Tống Văn Tam giữ chức Phó Chủ tịch Hội.
Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm kỳ 2018-2023 là: “Hội Nông dân tỉnh Hà Nam tiếp tục phát huy sức mạnh
đoàn kết, năng động, sáng tạo, xây dựng giai cấp nông dân là chủ
thể trong phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững, đi đầu thực
hiện thắng lợi “Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018 - 2020” và Chương trình “Tuyên
truyền, vận động sản xuất, kinh doanh nông sản thực phẩm an toàn vì sức khỏe
cộng đồng giai đoạn 2017- 2020”; chủ động hội nhập quốc tế; xây dựng tổ
chức Hội vững mạnh, xứng đáng là trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân
và công cuộc xây dựng nông thôn mới; tham gia có hiệu quả vào công tác xây dựng
Đảng, chính quyền vững mạnh và khối đại đoàn kết dân tộc...”.
Đại hội đề ra 4 mục tiêu: (1)Xây dựng Hội Nông dân tỉnh Hà Nam trong sạch,
vững mạnh và tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công
tác nông vận; tích cực vận động hội viên, nông dân phát triển nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững. Thực hiện tốt công tác tập hợp, đoàn
kết, phát huy dân chủ, sức sáng tạo, khả năng liên kết, hợp tác của hội viên,
nông dân; tham mưu cho Đảng và phối hợp với các cơ quan Nhà nước xây dựng chủ
trương, cơ chế, chính sách đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội
viên, nông dân; (2)Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả Phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi,
đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”; huy động các nguồn lực
hỗ trợ hội viên, nông dân phát triển sản
xuất, kinh doanh, nhất là hội viên, nông dân khởi nghiệp thành công, hợp tác phát triển sản xuất,
kinh doanh hiệu quả, cải thiện chất lượng cuộc sống, giảm nghèo bền vững; (3) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực vận động nông dân
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; (4) Nâng cao chất lượng hội viên và xây dựng giai cấp
nông dân vững mạnh; tăng cường tập huấn, đào tạo, cung cấp thông tin, tiến bộ khoa
học kỹ thuật mới trong sản xuất, kinh doanh; xây dựng lực lượng lao động nông
thôn có tác phong công nghiệp, có năng lực quản lý và kỹ năng sản xuất chuyên nghiệp đáp ứng được
yêu cầu của nền sản xuẩt hàng hóa và áp dụng các thành quả của nền nông nghiệp
4.0; thực hiện ngày
càng tốt vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng
nông thôn mới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội giữ vững ổn định chính trị
- xã hội, quốc phòng- an ninh của tỉnh.
Đồng thời đề ra một số chỉ
tiêu như: Kết nạp được 20.000 hội viên mới; hàng năm có từ 60% số hộ nông dân
trở lên đăng ký phấn đấu và có từ 50% số hộ đăng ký trở lên đạt danh hiệu sản
xuất kinh doanh giỏi các cấp; hỗ trợ giảm nghèo từ 800 - 1.000 hội viên
nghèo/năm; phối hợp vận động trên 90% hộ hội viên, nông dân tham gia bảo hiểm y
tế tự nguyện;100% cơ sở hội tổ chức cho hội viên nông dân sản xuất kinh doanh
nông sản đăng ký, cam kết đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Hội Nông dân tỉnh Hà Nam (Khóa X) họp ngày 28/6/2019 đã thông qua hai Nghị quyết về
xây dựng Hội và đẩy mạnh phong trào nông dân: Nghị quyết số 01- NQ/HNDT “về nâng cao chất lượng công tác xây dựng
hội, trọng tâm là xây dựng cơ sở hội; chi hội; tổ hội giai đoạn 2019 - 2023”, Nghị
quyết số 02- NQ/HNDT “về phát triển mô
hình kinh tế của Hội giai đoạn 2019 - 2023”.
* * *
* *
Trải qua 89 năm xây dựng và
trưởng thành, với những thành tích trong công tác xây dựng tổ chức Hội và thực
hiện tốt các phong trào nông dân, Hội Nông dân tỉnh Hà Nam đã được Nhà nước
tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng Ba, hạng Nhì; Thủ tướng Chính phủ, Trung
ương Hội Nông dân Việt Nam, Uỷ ban nhân dân tỉnh tặng Hà Nam tặng Cờ đơn vị thi
đua xuất sắc nhiều năm liền; các bộ, ngành Trung ương, Uỷ ban nhân dân tỉnh
tặng nhiều Bằng khen…
Phát huy truyền thống, thành tích đạt
được; thiết thực chào mừng 89 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam và các
ngày lễ lớn của đất nước năm 2019, trong thời gian tới các cấp Hội trong tỉnh
thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau: (1) Tiếp tục đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến kịp thời đến hội viên nông dân các chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, nhất là các chủ trương, chính sách liên quan
đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn; (2) Tập trung đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy tinh gọn, hoạt động hiệu quả; (3) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát,
coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ công tác hội cho đội
ngũ cán bộ hội, nhất là cán bộ làm công tác kiểm tra của hội; (4) đẩy mạnh công
tác dạy nghề, nâng cao chất lượng dạy nghề cho nông dân, trong đó chú trọng
nông dân là chủ trang trại, gia trại, nông dân ứng dụng công nghệ cao vào sản
xuất nông sản hàng hóa; (5) Chủ động, phối hợp với các ngành, địa phương triển
khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội
liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn; (6) Tăng cường nắm bắt tình
hình, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nông dân./.
BAN XÂY DỰNG HỘI