Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 -14/10/2023)
ĐỀ
CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 93 NĂM
NGÀY
THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT
NAM
(14/10/1930
- 14/10/2023)
(Ban
hành kèm theo Kế hoạch số154 - KH/HNDT, ngày 28 tháng 9 năm 2023 của
Ban Thường vụ Hội Nông dân tỉnh Hà Nam)
PHẦN I
TUYÊN
TRUYỀN KỶ NIỆM 93 NĂM NGÀY
THÀNH LẬP
HỘI
NÔNG DÂN VIỆT NAM
I. SỰ RA ĐỜI NÔNG HỘI ĐỎ, TIỀN THÂN CỦA HỘI
NÔNG DÂN VIỆT NAM.
Đầu năm 1920, sau khi dập tắt các cuộc khởi
nghĩa của nông dân, ruộng đất được tích tụ vào tay một số ít địa chủ Pháp, nhà
chung, phong kiến, quan lại, địa chủ thường và địa chủ kiêm công thương đã làm
xã hội phân hóa mạnh mẽ. Giai cấp địa chủ chiếm 9% tổng số chủ ruộng nhưng lại
sử hữu trên 50% diện tích đất canh tác. Tiểu nông chiếm trên 90% tổng số chủ
ruộng nhưng lại chỉ có gần 40% diện tích trồng cây. Ngoài ra còn khoảng 2,2
triệu hộ trong tổng số 4 triệu hộ nông thôn lúc bấy giờ hoàn toàn không có đất.
Họ bị bóc lột dã man bởi tô, tức, thuế...
Đời sống nông dân dưới thời Pháp thuộc vô
cùng nghèo nàn, đau khổ. Song chính trong sự áp bức bóc lột tàn bạo của thực
dân Pháp và tay sai đã khiến cho họ nhận rõ bộ mặt thực của kẻ thù dân tộc và
kẻ thù giai cấp. Bằng những kinh nghiệm trực tiếp của mình, giai cấp nông dân
đã tiến từng bước tới giác ngộ chính trị. Họ sẵn sàng ủng hộ, đi theo các phong
trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì quyền lợi của người lao động.
Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản đầu tiên của
Việt Nam, từ lâu, Người đã hiểu và gắn bó với nông dân Việt Nam. Trong cuốn
Đường Kách mệnh (1927), đồng chí Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề nông dân Việt Nam
muốn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột thì phải “tổ chức nhau lại”, vì vậy, Người
đã dành riêng một chương phân tích về tình hình nông dân Việt Nam và tầm quan
trọng của “Tổ chức dân cày”,
trong đó nêu bật: (1) Vạch rõ nguồn gốc đói nghèo, đau khổ của nông dân Việt
Nam chính là do sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của đế quốc, phong kiến và bè lũ
tay sai. Vì vậy “Nếu dân cày An Nam muốn thoát khỏi vòng cay đắng, thì
phải tổ chức nhau kiếm đường giải phóng”; (2) Giai cấp nông dân cần phải có
tổ chức riêng của mình là Hội dân cày. Nhưng trong tình hình hiện tại chưa nên
gọi là Hội dân cày, mà nên gọi là phường lợp nhà, phường đánh cá, phường chung
lúa...
Ngày 01/11/1929, Báo “Dân cày” số đầu tiên
của tỉnh Ninh Bình được phát hành, nội dung tờ báo tố cáo sự bóc lột dã man của
thực dân, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh chống đế quốc cướp nước và đánh
đổ tay sai.
Cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Nông hội đỏ đã
xuất hiện ở một số địa phương. Tháng 11/1929, Ban Chấp hành Tổng Nông hội Nghệ
An ra đời, do đồng chí Phan Thái Ất làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của xứ ủy
Trung Kỳ, ngày 10/12/1929 ở thành phố Vinh - Bến Thủy và một số vùng ở Nghệ An
rải truyền đơn kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia các tổ chức quần chúng
của Đảng cộng sản. Truyền đơn có phần kêu gọi Dân cày ra nhập Nông hội, theo
Đảng Cộng sản đấu tranh đòi bỏ thuế người, thuế vườn, thuế chợ, thuế đò,
bỏ lệ bắt phu... Tiếp theo nhiều tổ chức Nông hội đỏ được thành lập ở Thái
Bình, Hà Nội, Hà Đông, Hải Phòng, Hải Dương và các tỉnh Trung Kỳ, Nam
Kỳ...
Đầu năm 1930, Hội nghị hợp nhất thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Cửu Long (Hương Cảng - Trung Quốc),
trong Sách lược vắn tắt của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự thảo, được Hội
nghị hợp nhất thông qua ngày 03/02/1930 đã nêu ra những vấn đề cơ bản đối với
giai cấp nông dân: “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày
nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến";
đồng thời, Đảng nhấn mạnh "Nông dân là lực lượng to lớn của cách
mạng". Vì vậy, phải tập hợp nông dân vào một tổ chức dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân, đấu tranh giành độc lập tự do và thực hiện cách mạng
ruộng đất.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931, dưới sự lãnh
đạo của các Đảng bộ địa phương, các tổ chức Nông hội cấp cơ sở được hình thành
ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, đặc biệt là ở Nghệ - Tĩnh. Nông dân cả nước đã vùng lên đấu
tranh cùng với công nhân giành thắng lợi từng bước. Chỉ tính từ tháng 5/1930 -
10/1930 cả nước có 53.000 hội viên nông hội.
Trên cơ sở đó, Hội nghị lần thứ Nhất, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng họp trong tháng 10/1930 tại Hương Cảng đã thông qua
bản Luận cương chính trị, Luận cương nêu rõ: “Dân cày là hạng người chiếm
đại đa số ở đông Dương (hơn 90 phần trăm), họ là một động lực mạnh cho
cách mạng tư sản dân quyền”. Luận cương vạch rõ: “Vấn đề thổ địa là cái
cốt của cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp có đứng đầu và cùng
với quần chúng dân cày để tranh đấu và binh vực quyền lợi hằng ngày cho dân cày
và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để thì mới giành quyền lãnh đạo dân
cày được”.
Cùng với việc thông qua Luận cương chính trị,
Hội nghị còn ra Nghị quyết về Tình hình hiện tại ở Đông Dương và
nhiệm vụ cần kíp của Đảng, trong đó nêu rõ các quyết định quan trọng của
Hội nghị, một trong các quyết định đó là “phải chỉnh đốn Nông hội lại cho có hệ
thống theo điều lệ mới và dự bị việc tổ chức Đông Dương Tổng Nông hội”.
Tại Hội nghị quan trọng này, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về thành lập Tổng Nông hội Đông Dương và thông
qua Điều lệ Tổng Nông hội Đông Dương gồm 8 điều trong đó nêu rõ mục đích "Thống
nhất hết thảy Tổng Nông hội Đông Dương để tranh đấu bênh vực quyền lợi hàng
ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng thổ địa". Điều lệ Tổng
Nông hội Đông Dương quy định: “Hễ Nông hội nào thừa nhận mục đích, Điều
lệ và chịu thi hành những án nghị quyết của Tổng Nông hội Đông Dương và
nộp hội phí thì được nhận làm hội viên”. Trong đó trọng tâm là xây dựng tổ
chức Nông hội, cơ sở của Nông hội là làng. Tổ chức phải theo hệ thống dọc: từ
tổng Tổng Nông hội, huyện Tổng Nông hội, tỉnh Tổng Nông hội, xứ Tổng Nông hội,
đông Dương Tổng Nông hội. Cũng tại hội nghị này Điều lệ Nông hội làng được thông qua. Mục đích của Nông hội làng là đoàn
kết hết thảy bần và trung nông trong làng, liên hiệp với nông dân và công nhân
các nơi trong nước để dấu tranh chống áp bức, bóc lột, bênh vực quyền lợi của
nông dân và thực hiện cách mạng ruộng đất.
Việc thành lập Tổng Nông hội Đông Dương (tên
gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay) đã đánh dấu bước ngoặt quan
trọng trong lịch sử giai cấp nông dân Việt Nam, sự trưởng thành và lớn mạnh về
phong trào nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
II. HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
1. Hội Nông dân Việt Nam và cuộc vận động
cách mạng giải phóng dân tộc
(1930 - 1945).
Ngày 20/3/1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
ra Chỉ thị về vấn đề chỉnh đốn Nông hội đỏ, trong đó khẳng định vai trò to lớn
của Nông hội trong cách mạng, giai cấp nông dân “là một lực lượng chính của
cách mạng”. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai, tháng 3/1931 nhấn mạnh: Cần
phải đẩy mạnh việc tổ chức Nông hội làng, tuyên truyền sâu rộng chủ trương của
Đảng, đồng thời chỉ rõ: trong điều kiện địch khủng bố trắng, nông dân
cùng các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh, giương cao khẩu hiệu: chống sưu thuế,
địa tô, chống nạn thất nghiệp, chống khủng bố trắng, chống cải lương
lừa dối, chống chiến tranh....
Thực hiện Nghị quyết Trung ương hai, các tổ
chức Nông hội được củng cố và trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông
dân. Tháng 6/1932 Trung ương Đảng đã khởi thảo Chương trình hành động nhằm khôi
phục nhanh chóng phong trào cách mạng, đồng thời đề ra phương hướng đấu tranh
và những biện pháp cụ thể phù hợp với tình hình mới. Chủ trương của Đảng nêu
rõ: phải tận dụng mọi khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp để tổ chức đấu tranh và
phát triển tổ chức bí mật (Nông hội). Trên cơ sở Chương trình hành động của
Đảng, Chương trình hành động của Nông hội ra đời bao gồm 10 điểm.
Tháng 3/1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã họp, đề ra đường lối chính trị và phương pháp tổ chức mới, tên của các tổ
chức quần chúng đều được thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Quyết định lấy
tên Nông hội thay Nông hội đỏ. Nông dân có tổ chức chính là Nông hội, có thể tổ
chức nhiều hội (nhưng nội dung là Nông hội); Hội tương tế, ái hữu, hợp tác xã,
hội cấy, hội gặt, hội hiếu hỉ, hội góp họ, phường đi săn, hội chèo, nhóm học
quốc ngữ... đã thu hút đông đảo nông dân đấu tranh giành quyền lợi của giai cấp
mình. Chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng đã giúp cho Nông hội khắp nơi
trong nước phát huy vai trò của mình trong việc tập hợp, lãnh đạo nông dân hợp
lực với công nhân và nhân dân lao động đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ.
Trong năm 1937, có hơn 150 cuộc đấu tranh của
nông dân chống cướp ruộng đất, đòi chia ruộng công, giảm tô, tức, khất thuế...
Từ tháng 01 – 11/1938, có 125 cuộc đấu tranh của nông dân với 55.442 người tham
gia.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám, tháng
5/1941 khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng
đất thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian chia cho dân
cày nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức; thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh (gọi tắt là Việt Minh); Mặt trận các đoàn thể lấy tên là Cứu quốc:
"Nông hội từ nay gọi
là Việt Nam Nông dân cứu quốc hội, Việt Nam Nông dân cứu quốc hội là một
bộ phận của Việt Nam độc lập đồng minh; thu nạp hết thảy nông dân đến cả
hạng phú nông, địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp - Nhật". Điều
lệ Việt Nam Nông dân cứu quốc hội được Hội nghị tháng 5/1941 thông qua gồm 11
điều. Mục đích liên hiệp hết thảy các hạng nông dân yêu nước để binh vực quyền
lợi hàng ngày cho nông dân và cùng với các đoàn thể khác chuẩn bị đánh Pháp
đuổi Nhật giành quyền độc lập lại cho nước Việt Nam. Hội lấy làng, ấp làm cơ
sở... có Ban chấp hành hội chỉ huy, làng, tổng, tỉnh, xứ, toàn quốc đều phải cử
ra Ban chấp hành, ở cấp bộ nào phải cử đại biểu để thành lập Uỷ ban Việt Minh ở
cấp ấy.
Từ đầu năm 1941, dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, nông dân các dân tộc Cao Bằng đã tổ chức những
đoàn thể cứu quốc đầu tiên. Sau đó, nông dân từ miền ngược đến miền xuôi nô nức
tham gia vào các đoàn thể của Mặt trận Việt Minh. Nông dân cứu quốc hội là lực
lượng to lớn của Mặt trận Việt Minh, đồng thời nông dân còn chiếm đại đa số
trong hầu hết các tổ chức cứu quốc ở nông thôn như: thanh niên, phụ nữ... tạo
nên một lực lượng chính trị rộng lớn, áp đảo kẻ thù. Các tổ chức nông dân cùng
với công nhân đã trở thành "xương sống" của Mặt trận. Từ các bản làng
heo hút ở vùng rừng núi Việt Bắc đại ngàn xuống đến vùng châu thổ sông Hồng hay
trong các thôn xóm của Trung Kỳ, Nam Kỳ, các đội tự vệ cứu quốc mà lực lượng
chủ yếu là thanh niên nông dân ưu tú đã lần lượt ra đời làm nòng cốt cho phong
trào đấu tranh của quần chúng.
Năm 1941- 1942, dưới sự lãnh đạo của Nông
hội, nông dân đã đấu tranh chống thu thóc, chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô
trồng thầu dầu... Từ năm 1943, với khẩu hiệu: "Đoàn kết toàn dân đánh
đuổi Nhật - Pháp", Nông hội đã đưa nông dân tham gia vào các phong
trào sôi nổi với những hình thức như biểu tình chống Nhật, vũ trang đánh
Nhật... Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (ngày 09/3/1945), phong trào "Phá
kho thóc Nhật giải quyết nạn đói" đã lôi cuốn hàng triệu nông dân vùng
lên đấu tranh trực diện với kẻ thù. Qua phong trào đấu tranh các tổ chức cứu
quốc của nông dân càng phát triển mạnh mẽ, góp sức vào làn sóng khởi nghĩa từng
phần đang nổi lên cuồn cuộn trong cả nước, làm tan rã từng mảng chính quyền cơ
sở của phát xít, tay sai, tạo nên khí thế cách mạng sôi sục, đưa cả nước hừng
hực bước vào cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công.
Thành công vĩ đại của Cách mạng tháng Tám là
một minh chứng cho tinh thần, khả năng và vai trò cách mạng to lớn của nông dân
với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đồng thời, là một thắng lợi của sự lãnh
đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng đối với các tổ chức của giai cấp nông dân, thể
hiện sự gắn bó giữa Đảng với nông dân, nông dân với Đảng.
2. Giai
cấp nông dân Việt Nam và Hội Nông dân Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam
chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước (1945 - 1975).
Trong điều kiện chiến tranh ngày càng lan
rộng với mức độ gay go ác liệt hơn, nhiệm vụ kháng chiến càng đòi hỏi phải động
viên toàn thể nông dân tham gia trên tất cả các mặt trận. Đảng và Nhà nước ta
chủ trương thành lập Ban Nông vận Trung ương, kiện toàn tổ chức ở cấp Trung
ương.
Ngày 06/8/1949, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã ra Nghị quyết số 02 - NQ/TW về việc thành lập Ban Nông vận Trung ương, gồm 06
đồng chí: Hồ Viết Thắng - Ủy viên Trung ương Đảng làm Trưởng ban, Nguyễn Hữu
Thái, Nguyễn Mạnh Hồng, Phạm Xuân Di, Trương Việt Hùng, Trần Đào.
Với nhiệm vụ của Ban Nông vận Trung ương là
vận động nông dân: tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, nuôi dưỡng bộ đội, xây
dựng hợp tác xã, hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức, đào tạo cán bộ và
thanh toán nạn mù chữ. Thực hiện chủ trương trên Ban Nông vận Trung ương đã tổ
chức Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ Nhất họp từ ngày 28/11 - 07/01/1949 tại thôn Phong Vân, xã Tân Tiến
(Yên Sơn - Tuyên Quang). Dự Hội nghị có đông đảo cán bộ đại diện cho tổ chức
Hội Nông dân ba miền Bắc, Trung, Nam. Hội nghị đã tập trung kiểm điểm, đánh giá
ưu, khuyết điểm của tổ chức Hội, phong trào nông dân, đặc biệt là đánh giá vai
trò của tổ chức và hoạt động của phong trào nông dân từ khi cuộc kháng chiến
toàn quốc bùng nổ.
Trong thư gửi Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đánh giá cao vị trí, vai trò và tiềm lực lớn lao của giai cấp nông dân cả nước
trong đấu tranh giành chính quyền và sự nghiệp kháng chiến. Hội nghị đã nhất
trí thành lập “Hội Nông dân cứu quốc Trung ương” (sau đổi tên là Ban
Liên lạc Nông dân toàn quốc).
Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào nông
dân và Hội Nông dân Việt Nam, giai cấp nông dân có một tổ chức Hội ở cấp Trung
ương, đáp ứng nguyện vọng của nông dân cả nước.
Ngày 16/4/1951 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
ban hành Nghị quyết số 09 −NQ/TW về “Thành lập các ban và tiểu ban giúp việc”,
trong đó có Tiểu ban Nông vận gồm có 8 đồng chí: Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung
ương Đảng làm Trưởng ban và các đồng chí Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái,
Trần Đức Thịnh, Phạm Xuân Dy, Nguyễn Mạnh Hồng, Nguyễn Ca, Trần Đào.
Phong trào nông dân từ sau Hội nghị cán bộ
nông dân toàn quốc lần thứ nhất có bước phát triển mới, toàn diện và rất mạnh
mẽ. Để tiếp tục đánh giá phong trào nông dân và tổ chức Hội Nông dân. Ban Liên
lạc nông dân toàn quốc quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc
lần thứ Hai, tháng 5/1951, tại thôn Đồng Quắc, xã Bình Nhân (Chiêm Hoá - Tuyên
Quang). Dự Hội nghị có hơn 100 đại biểu đại diện cho giai cấp nông dân cả nước.
Hội nghị đánh giá phong trào nông dân, hoạt động của tổ chức Hội và quán triệt
nhiệm vụ Hội Nông dân trước yêu cầu nhiệm vụ đưa cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp tới toàn thắng. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tới dự và phát biểu trước Hội nghị. Đồng chí Tổng Bí thư dành
nhiều thời gian nói về Chính cương của Đảng, quan điểm của Đảng đối với nông
dân và chính sách ruộng đất. Hội nghị đã tập trung quán triệt những nhiệm vụ
mới của Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào nông dân và xây dựng tổ chức Hội
đáp ứng với những yêu cầu trước mắt.
Ngày 08/3/1956, Ban Bí thư ban hành Nghị
quyết số 05 – NQ/TW về “Thành lập Ban Công tác nông thôn của Đảng”, lãnh đạo
Ban Công tác nông thôn, gồm Trưởng ban là các đồng chí Hồ Viết Thắng, Ủy viên
Trung ương Đảng (4/1956- 10/1956); các đồng chí Phó Trưởng ban: Nguyễn Mạnh
Hồng, Nguyễn Hữu Khiếu, Trần Đức Thịnh; các đồng chí Ủy viên: Nguyễn Hữu Thái,
Trương Việt Hùng, Phạm Xuân Di, Trần Đào, Nguyễn Ca.
Ở miền Bắc:
Với tinh thần "Tất cả cho tiền tuyến,
tất cả để chiến thắng", nông dân đã hăng hái tham gia
"Phong trào thi đua ái quốc sản xuất lập công đề cao chiến sĩ" do
Đảng và Chính phủ phát động. Các cấp Hội nông dân đã tập trung vận động thực
hiện các phong trào, như: xây dựng “Cánh đồng 5 tấn”, “Thóc không thiếu một
cân, quân không thiếu một người”, phong trào thanh niên nông thôn lên đường tòng
quân giết giặc, bảo vệ Tổ quốc...
Hội Nông dân trong các vùng địch tạm chiếm đã
tiến hành nhiều hình thức đấu tranh như bám ruộng đất, làng xóm để sản xuất;
lên án hành động bắn phá, đốt hoa màu của địch; tranh thủ sản xuất, thu hoạch
và cất dấu lương thực, thực phẩm ở vùng địch hậu để đảm bảo được nhu cầu của
nhân dân và còn đóng góp cho Nhà nước, phục vụ sự nghiệp kháng chiến.
Phong trào cách mạng của giai cấp nông dân và
Hội Nông dân đã đóng góp quan trọng vào thắng lợi của các chiến dịch. Chiến thắng
lịch sử Điện Biên phủ, ngày 07/5/1954 và thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ, ngày
20/7/1954 về Đông Dương mở ra một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Hoà bình
được lập lại ở Đông Dương, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá
độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam:
Được đế quốc Mỹ giúp sức, chính quyền Ngô
Đình Diệm đã trắng trợn vi phạm Hiệp định Giơnevơ và tập trung sức củng cố bộ
máy thống trị phản động, đẩy mạnh việc xây dựng quân đội ngụy làm lực lượng
xung kích chống cộng và đàn áp nhân dân. Thực hiện chủ trương chuyển hướng đấu
tranh của Đảng và Chính phủ, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở nông thôn
miền Nam, Nông hội vừa tích cực tổ chức vận động nông dân chuẩn bị đấu tranh
lâu dài, vừa khẩn trương tranh thủ thời gian trước khi bàn giao các địa bàn cho
đối phương để củng cố sản xuất, ổn định đời sống. Nam Bộ và khu V tiếp tục đẩy
mạnh việc chia cấp ruộng đất cho nông thôn nâng tổng số ruộng đất chia cho đồng
bào lên 750.000ha cho 1.299.000 hộ nông dân.
Phong trào đấu tranh chính trị của nông dân
miền Nam diễn ra hết sức mạnh mẽ, quyết liệt. Các làng, xã chiến đấu được hình
thành và phát triển.
Ngày 20/12/1960, Đại hội đại biểu quốc dân
miền Nam đã họp tại căn cứ Bắc Tây Ninh, tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ngày 21/4/1961, “Hội Nông dân giải phóng
miền Nam Việt Nam” chính
thức được thành lập và là thành viên của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam. Sự ra đời của Hội là một mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển của tổ
chức nông dân, mà trên thực tế hàng ngàn cơ sở Nông hội cứu quốc ở các khu,
tỉnh, huyện, xã đã được phục hồi trong thời gian Đồng khởi.
Để phát huy những thành quả đạt được sau 5
năm hoạt động, tháng 01/1965 Đại hội lần thứ nhất của Hội Nông dân Giải phóng
miền Nam được khai mạc. Đại hội đã đánh giá tình hình hoạt động của Hội từ khi
ra đời và quán triệt yêu cầu nhiệm vụ mới của nông dân trong đấu tranh chống kế
hoạch bình định nông thôn của ngụy quyền Sài Gòn. Đại hội đã biểu dương những
thành tích to lớn của nông dân miền Nam trong việc phát triển thế trận chiến
tranh nhân dân và chiến tranh du kích, đánh địch bảo vệ vùng giải phóng, vùng
căn cứ cách mạng và là lực lượng chủ yếu trên mặt trận sản xuất, bảo đảm đời
sống và cung cấp hậu cần cho bộ đội ở tiền phương đánh giặc.
Qua Đại hội I, Hội Nông dân Giải phóng miền
Nam, phong trào của Hội tiếp tục được phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất
lượng. Lúc này bộ máy tổ chức của Hội Nông dân Giải phóng miền Nam đã hình
thành theo 5 cấp: Miền, Khu, Tỉnh, Huyện và Xã. Xã là tổ chức cơ sở của Hội, xã
có Ban chấp hành, dưới xã có Ban cán sự thôn, ấp và tiểu tổ Hội. Bộ máy của Hội
được củng cố từ Xã lên Huyện, Tỉnh và Khu.
Tháng 7/1965 Hội Nông dân giải phóng miền Nam
đã ban hành dự thảo Điều lệ hoạt động của Hội nhằm tiếp tục mở rộng hoạt động
của các cấp Hội cơ sở, phát triển hội viên và động viên nông dân phát huy vai
trò tích cực của mình trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tháng 01/1969, Hội Nông dân giải phóng miền
Nam Việt Nam đã tiến hành Đại hội lần thứ II, nhằm tổng kết phong trào đấu
tranh của nông dân trong tám năm, đồng thời quán triệt yêu cầu và nhiệm vụ mới
của nông dân trong đấu tranh chống kế hoạch "Bình định cấp tốc" của
địch. Đại hội đã biểu dương những thành tích to lớn của nông dân miền Nam trong
việc phát triển thế trận chiến tranh du kích, đánh dịch, bảo vệ vùng giải
phóng, vùng căn cứ và là lực lượng chủ yếu trên mặt trận sản xuất, bảo đảm đời
sống và cung cấp hậu cần cho bộ đội. Hội tập trung vận động, tuyên truyền nông
dân thực hiện đúng đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng.
Thực hiện chủ trương của Đảng, lấy địa bàn
nông thôn làm hướng tiến công chính, đánh mạnh vào kế hoạch “Bình định cấp tốc”
của địch, giữ đất, giành dân, Hội Nông dân đã chủ động giáo dục hội viên khắc
phục tư tưởng nôn nóng, thoát ly thực tế muốn thắng nhanh, đồng thời vạch
rõ nhiệm vụ quan trọng nhất ở nông thôn là phải "giành dân, giành đất,
phát triển thế và lực của ta". Nông dân liên tục nổi dậy phá
rã, phá banh nhiều khu dồn dân, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ trên nhiều
địa bàn quan trọng. Vùng giải phóng đã mở rộng tới sát Sài Gòn. Ở đồng bằng Nam
Bộ, nông dân nổi dậy mở thêm nhiều vùng, nhiều lõm giải phóng, nối các vùng
giải phóng thành thế liên hoàn liên xã, liên huyện.
Thắng lợi của phong trào nông dân nổi dậy và
cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 dã làm chuyển biến căn bản cục diện
chiến tranh ở miền Nam và tiến tới "Tổng tấn công" mùa Xuân năm 1975
giành trọn vẹn thắng lợi, đất nước thống nhất, Nam - Bắc sum họp một nhà.
3. Hội Nông dân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc
Phát huy vai trò của tổ chức Hội Nông dân
trong sự nghiệp cách mạng và tiến tới Đại hội đại biểu nông dân toàn quốc, Đảng
và Nhà nước đã nhiều văn bản chỉ đạo đối với giai cấp nông dân Việt Nam,
như:
Ngày 18/9/1974, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã
ra Chỉ thị số 209 – CT/TW về tổ chức Đại hội Đại biểu nông dân tập thể các
cấp.
Ngày 11/10/1974, Ban Bí thư ra Thông báo số
16 – TB/TW về việc thành lập Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung
ương (gắn với Ban Nông nghiệp Trung ương).
Ngày 25/6/1979, Ban Bí thư ra Công văn số 156
– CV/TW, quyết định tách Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung
ương (trước đây nằm trong Ban Nông nghiệp Trung ương) thành một cơ quan riêng
trực thuộc Ban Bí thư, thuộc hệ thống các đoàn thể quần chúng.
Ngày 27/9/1979, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 78 –
CT/TƯ về việc tổ chức Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam.
Để phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp và đoàn kết nông dân lao động, đưa nông thôn nước ta tiến lên CNXH, Bộ
Chính trị đã quyết định thành lập tổ chức thống nhất của nông dân lao động
trong cả nước, có hệ thống từ Trung ương dén cơ sở, lấy tên là “Hội Liên
hiệp Nông dân tập thể Việt Nam”. Chỉ thị khẳng định Hội Liên hiệp Nông dân
tập thể Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân lao động trong cả
nước, Hội có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết nông dân để giáo dục, vận động nông dân
thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, hoàn thiện quan
hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp
miền Nam, đưa nông thôn tiến lên CNXH. Hội kết nạp tất cả nông dân hăng hái
phấn đấu vào con đường làm ăn tập thể XHCN, theo nguyện tắc tự nguyện.
Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam được
thành lập có ý nghĩa chính trị to lớn. Sau nhiều năm không có tổ chức Hội (ở
miền Bắc) nay giai cấp nông dân cả nước có tổ chức thống nhất từ Trung ương
xuống cơ sở.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau,
nông nghiệp nước ta chưa có những chuyển biến tích cực. Mô hình hợp tác xã nông
nghiệp trong thời gian qua nay không còn phù hợp. Những hạn chế của nó đã dẫn
đến những biểu hiện suy thoái trong phát triển sản xuất, những dấu hiệu khủng
hoảng, bất hợp lý bộc lộ ngày càng rõ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn.
Tổ chức Hội Nông dân ngày càng được Đảng quan
tâm hơn. Ngày 27/9/1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 116 – CT/TW về tăng cường sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp nông
dân tập thể Việt Nam.
Về tổ chức Hội, Ban Bí thư quy định: “Ở Trung
ương, tỉnh, huyện thành lập Hội đồng của Hội Liên hiệp nông dân tập thể ở từng
cấp; cơ quan của Hội đồng gắn với Ban Nông nghiệp của Đảng, là một bộ phận của
Ban Nông nghiệp Trung ương, Ban Nông nghiệp tỉnh, thành phố. Ở cấp huyện, cử
đồng chí thường vụ cấp ủy Đảng phụ trách nông nghiệp trực tiếp làm chủ tịch Hội
đồng nông dân tập thể ở huyện và một số cán bộ có chất lượng giúp việc làm
những nhiệm vụ thường trực của Hội đồng nông dân tập thể huyện”. Đồng thời,
quyết định cho ban hành Điều lệ Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam quy
định rõ tính chất, mục đích, nhiệm vụ của Hội và tổ chức Hội ở các cấp và Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt
Nam.
Ngày 20/12/1982, Ban Bí thư ra Thông tri số
22 – TT/TW quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông
dân tập thể toàn quốc.
Ngày 13/02/1984, Ban Bí thư ra Thông báo số
32 – TB/TW về việc mở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp
Nông dân tập thể Việt Nam.
Ngày 10/3/1984, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra
Công văn số 326 – CV/TW về Hướng dẫn công tác chuẩn bị và tổ chức Đại hội đại
biểu nông dân tập thể các cấp và đại hội toàn quốc Hội Liên hiệp Nông dân tập
thể Việt Nam.
Từ ngày 28/5 - 31/5/1984, tại Hậu Giang, Ban
Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể toàn quốc đã tổ chức họp với 39/40
tỉnh, thành phố trong cả nước để sơ kết Đại hội các cấp chuẩn bị Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.
Ngày 22/6/1984, Ban Bí thư ra Thông tri số 45
– TT/TW, về tổ chức của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Hội Liên hiệp
Nông dân tập thể Việt Nam là một tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân lao
động do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Địa bàn hoạt động chủ yếu của Hội là
cơ sở. Cơ quan của Hội các cấp là Hội đồng Hội Liên hiệp nông dân tập thể. Tổ
chức cơ sở của Hội là Hợp tác xã quy mô toàn xã, xã viên là hội viên, được kết
nạp tập thể. Ở cấp huyện do đồng chí huyện ủy phụ trách nông nghiệp làm Chủ
tịch; ở cấp tỉnh, thành phố do Trưởng hoặc Phó Ban Nông nghiệp làm Chủ tịch.
Hội đồng sử dụng bộ máy của Ban Nông nghiệp tỉnh, thành làm thường trực của
Hội. Ở Trung ương do đồng chí Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương làm Chủ tịch.
Hội đồng sử dụng bộ máy của Ban Nông nghiệp
Trung ương làm thường trực Hội. Chuyển Ban
Chấp hành của Hội ở các cấp thành Hội đồng.
Để thống nhất quan điểm, nhận thức về vị trí,
vai trò, tổ chức hoạt động của Hội Liên hiệp Hội Nông dân tập thể, đồng thời
chuẩn bị tốt hơn về mọi mặt cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội
Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Từ ngày 26/4 – 28/4/1986, tại thị xã Hà
Đông, tỉnh Hà Sơn Bình, Ban Nông nghiệp Trung ương đã tổ chức hội nghị các
Trưởng ban Nông nghiệp và Chủ tịch Hội Nông dân tập thể các tỉnh, thành phố
dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Bí thư Trung ương Đảng, cùng
các đồng chí Vũ Oanh, Dương Quốc Cẩm.
Quán triệt tinh thần đổi mới theo nội dung
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, nhằm đẩy mạnh hoạt động của Hội Liên hiệp Nông
dân tập thể Việt Nam, ngày 24/3/1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị
số 05/CT-TW về Tổ chức Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam và Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội.
Ngày 01/3/1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã
ra Quyết định số 42 QĐ/TW về việc đổi tên Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt
Nam thành “Hội Nông dân Việt Na”. Tại phiên họp ngày 17/01/1991, Bộ
Chính trị đã đồng ý lấy ngày 14 tháng 10 năm 1930 làm Ngày thành lập Hội Nông
dân Việt Nam.
Ngày 20/5/1991, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số
69 – CT/TƯ về việc Tổ chức kỷ niệm 61 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam
(14/10/1930 – 14/10/1991). Lần đầu tiên Hội Nông dân Việt Nam tổ chức mít tinh
kỷ niệm trọng thể 61 năm Ngày thành lập Hội tại Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư Đỗ
Mười tới dự và có bài phát biểu quan trọng.
Qua 93 năm xây dựng và phát triển, Hội Nông
dân Việt Nam đã vinh dự được Đảng, Nhà nước ghi nhận và trao tặng các hình thức
khen thưởng cao quý. Trong đó có 02 lần vinh dự được trao tặng Huân chương Sao
Vàng; 01 lần vinh dự được trao tặng Huân chương Độc Lập; Kỷ niệm 90 năm Ngày
thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930-14/10/2020), Hội Nông dân Việt Nam
vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
4. Các kỳ đại hội
của Hội Nông dân Việt Nam
4.1. Đại hội lần thứ I (nhiệm kỳ 1988 - 1993)
Đại hội được tổ chức từ ngày 28/3 - 29/3/1988
tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 613 đại biểu thay mặt cho
11.188.789 hội viên của cả nước. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 95 đồng chí
và bầu 17 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Phạm Bái - Ủy viên Trung ương Đảng
được bầu giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt
Nam.
Đại hội là sự kiện chính trị trọng đại, đánh
dấu một mốc son quan trọng trên chặng đường lịch sử vẻ vang gần 6 thập kỷ, mở
ra giai đoạn phát triển mới của phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam,
từ đây, một tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân chính
thức được thành lập, có hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ Trung ương đến cơ
sở, khẳng định những quan điểm cơ bản của Đảng về vị trí, vai trò của giai cấp
nông dân và Hội Nông dân Việt Nam.
4.2. Đại hội lần thứ II (nhiệm kỳ 1993 - 1998)
Đại hội được tổ chức từ ngày 15/11 -
19/11/1993 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 600 đại biểu đại diện
cho 7.269.982 hội viên. Đại hội đã bầu 77 đồng chí vào Ban Chấp hành và 14 Ủy
viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) - Ủy viên Trung ương Đảng
được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Đây là Đại hội “Đổi mới tổ chức, nội
dung và phương thức hoạt động”, là Đại hội của trí tuệ và niềm tin, nơi hội
tụ ý chí và nguyện vọng của giai cấp nông dân quyết tâm đổi mới và xây dựng Hội
Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt.
4.3. Đại hội lần thứ III (nhiệm kỳ 1998 – 2003)
Đại hội được tổ chức từ ngày 17/11 -
20/11/1998 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 700 đại biểu
thay mặt cho 7.215.544 hội viên, nông dân. Đại hội đã bầu 114 Ủy viên Ban Chấp
hành, 19 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Đức Triều - Ủy viên Trung ương
Đảng được bầu lại giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt
Nam.
Đại hội khẳng định tiếp tục đổi mới và phát
huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Hội, tổ chức, động viên giai cấp nông dân phát
huy nội lực, cần kiệm xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn.
4.4. Đại hội lần thứ IV (nhiệm kỳ 2003 - 2008)
Đại hội được tổ chức từ ngày 22/11 -
25/11/2003 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 860 đại biểu
đại diện cho 8.173.238 hội viên cả nước. Đại hội đã bầu 120 Ủy viên Ban Chấp
hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Vũ Ngọc Kỳ - Ủy viên Trung ương Đảng
được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Chủ đề Đại hội là "Đoàn kết - Đổi
mới - Dân chủ - Phát triển". Đại hội đã xác định phương hướng là: Xây
dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt, là trung tâm, nòng cốt trong
phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới; nâng cao vai trò đại
diện của giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững
mạnh, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh".
4.5. Đại hội lần thứ V (nhiệm kỳ 2008 – 2013)
Đại hội được tổ chức từ ngày 22/12 -
25/12/2008 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội. Tham dự Đại hội
có 1.175 đại biểu đại diện cho 9.563.577 hội viên. Đại hội đã bầu 124 Ủy viên
Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường - Ủy viên
Trung ương Đảng tái đắc cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông
dân Việt Nam.
Chủ đề Đại hội: “Đoàn kết - Đổi mới
- Hội nhập - Phát triển”. Đại hội đã xác định phương hướng là: “Đoàn
kết, năng động, sáng tạo, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh, là chủ thể
trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; Hội Nông dân vững về chính
trị, mạnh về tổ chức, thống nhất về hành động, là trung tâm và nòng cốt trong
phong trào nông dân, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới trong thời
kỳ đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh
tế thế giới...”.
4.6.
Đại hội lần thứ VI (nhiệm kỳ 2013 – 2018)
Đại hội được tổ chức từ ngày 30/6 - 03/7/2013
tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.169 đại
biểu thay mặt cho 9.913.432 hội viên, nông dân cả nước. Đại hội đã bầu 122 Ủy
viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc Cường, Ủy
viên Trung ương Đảng được tái cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội
Nông dân Việt Nam.
Chủ đề Đại hội: “Đoàn kết - Đổi mới - Chủ
động - Hội nhập - Phát triển bền vững”. Đại hội xác định phương hướng: Phát
huy vai trò trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng
nông thôn mới; đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động theo hướng kết hợp chặt
chẽ công tác tập hợp, tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân, tham gia xây
dựng cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; giám sát,
phản biện xã hội và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước với đẩy mạnh hợp tác tăng cường các hoạt động dịch vụ, tư
vấn, hỗ trợ và dạy nghề, đáp ứng nhu cầu và lợi ích thiết thực của hội viên,
nông dân. Trực tiếp và phối hợp thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án
phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở nông thôn...
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần
thứ thứ 8 (khóa VI), họp ngày 24/6/2016 tại Hà Nội đã bầu đồng chí Lại Xuân Môn
- Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Thường trực giữ chức Chủ tịch BCH Trung
ương Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Nguyễn Quốc Cường được Bộ Chính trị
cho nghỉ hưu; tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam lần
thứ 13 (Khóa VI), họp ngày 12/01/2018, tại Hà Nội đã bầu đồng chí Thào Xuân
Sùng, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Trung
ương giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thay đồng
chí Lại Xuân Môn được Bộ Chính trị bố trí công tác mới.
4.7.
Đại hội lần thứ
VII (nhiệm kỳ 2018 –
2023)
Đại hội được tổ chức từ ngày 11 - 13/12/2018
tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội. Tham dự Đại hội có 999 đại
biểu đại diện cho 10.192.865 hội viên. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước: Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng; Chủ
tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, đại
diện các ban, bộ, ngành trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, các cơ quan thông
tấn báo chí. Đại hội đã bầu 119 uỷ viên Ban Chấp hành; Hội nghị lần thứ nhất Ban
Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam khoá VII họp ngày 12/12/2018 tại Hà
Nội đã bầu 21 uỷ viên Ban Thường vụ; đồng chí Thào Xuân Sùng, Uỷ viên BCH
Trung ương Đảng tái đắc cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông
dân Việt Nam.
Đây là Đại hội của tinh thần: “Dân chủ -
Đoàn kết - Đổi mới - Hội nhập - Phát triển”. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII Hội Nông dân Việt Nam xác định phương hướng chung của nhiệm kỳ
5 năm (2018-2023) là xây dựng Hội Nông dân Việt Nam trong sạch, vững mạnh, phát
huy vai trò của Hội và giai cấp nông dân trong phát triển nông nghiệp thịnh
vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại. Hội Nông dân Việt Nam
cần nắm chắc nguyên tắc liên minh công nông, tiếp tục đổi mới toàn diện và mạnh
mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Hội theo hướng giải quyết tốt lợi ích
thiết thân của hội viên, nông dân, luôn dựa vào nông dân, vì nông dân; kết hợp
chặt chẽ phương pháp vận động, tuyên truyền miệng với phương pháp tổ chức có
hiệu quả các hoạt động dịch vụ, tư vấn, đào tạo nghề, hỗ trợ hội viên, nông dân
sản xuất, kinh doanh; vận động hội viên, nông dân thực hiện có hiệu quả Đề án
tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển và nâng
cao chất lượng hội viên.
Ngày 29/5/2021 tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam lần thứ 7, khóa VII. Tại Hội
nghị, đồng chí Nguyễn Quang Dương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Tổ
chức Trung ương đã công bố Quyết định 80-QĐNS/TW của Bộ Chính trị về việc phân
công, chỉ định đồng chí Lương Quốc Đoàn, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó bí thư
Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Thường trực Trung ương Hội Nông dân Việt Nam giữ chức
Bí thư Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam. Ngay sau đó, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam lần thứ 7, khóa VII đã bầu đồng chí Lương Quốc
Đoàn giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, nhiệm kỳ
2018-2023 với số phiếu 70/70 đại biểu có mặt (đạt kết quả 100%).
4.8.
Tiến tới Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2023 - 2028)
Trải qua 93 năm xây dựng và phát triển, dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát huy truyền thống lịch sử
cách mạng vẻ vang của tổ chức Hội và giai cấp nông dân, các cấp Hội Nông dân
Việt Nam đã không ngừng đổi mới nội dung phương thức hoạt động, đa dạng hóa các
hình thức tuyên truyền, vận động, tập hợp nông dân để củng cố, kiện toàn và xây
dựng tổ chức Hội Nông dân Việt Nam trong sạch, vững mạnh. Đến nay, cả nước có
gần 10 triệu hội viên sinh hoạt tại 9.885 cơ sở Hội, với tổng số 79.808 chi Hội
và 155.662 tổ Hội.
Giai cấp nông dân luôn tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng và chính sách của Nhà nước, đã phát huy tốt hơn vai trò chủ thể
trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, đặc biệt là trong xây dựng
nông thôn mới; tích cực tham gia cơ cấu lại nông nghiệp, phát huy vai trò kinh
tế hộ gia đình, phát triển kinh tế trang trại, tham gia hợp tác, liên kết theo
mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã, liên kết với doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn;
từng bước làm chủ trong các phong trào ở nông thôn với phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội. Trình độcủa nông dân ngày càng được nâng cao, đời sống, thu nhập và việc
làm không ngừng được cải thiện.
Trong nhiệm kỳ 2018 – 2023, các cấp Hội Nông
dân Việt Nam đã tiếp tục phát huy mạnh mẽ vai trò của mình, tích cực tuyên
truyền, vận động hội viên, nông dân phát huy tốt vai trò chủ thể trong phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh và giảm nghèo bền
vững; tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh và phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và
công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế. Vì vậy, các phong trào thi đua do Hội phát
động và hưởng ứng đã được lan tỏa sâu rộng, mang lại hiệu quả thiết thực, góp
phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng
nông thôn mới và bảo vệ môi trường; hoạt động tư vấn, dịch vụ, hỗ trợ, đào tạo
nghề, phát triển các mô hình kinh tế, tổ hợp tác, hợp tác xã tiếp tục được đẩy
mạnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động nông thôn, nâng cao đời
sống của nông dân; vai trò của Hội là trung tâm, nòng cốt cho các phong trào nông
dân ngày càng được thể hiện rõ nét...
Thực hiện Chỉ thị số 16- CT/TW ngày 10/8/2022
của Ban Bí thư về lãnh đạo đại hội Hội Nông dân các cấp và Đại hội đại biểu
toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2023 - 2028 và Điều lệ
Hội Nông dân Việt Nam, hiện nay, các cấp Hội Nông dân Việt Nam đã và đang tích
cực tiến hành các công việc chuẩn bị để tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc Hội
Nông dân Việt Nam lần thứ VIII, nhiệm kỷ 2023 - 2028. Đây là sự kiện chính trị
quan trọng của giai cấp nông dân và tổ chức Hội Nông dân Việt Nam; là cơ hội để
đẩy mạnh công tác xây dựng Hội Nông dân các cấp, xây dựng giai cấp nông dân
vững mạnh; phát huy vai trò to lớn của nông dân tham gia phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nhất là trong xây dựng và phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Theo kế hoạch, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội
Nông dân Việt Nam lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2023 -2028 sẽ được tổ chức trọng thể
vào tháng 12/2023 tại Thủ đô Hà Nội.
PHẦN
II
TUYÊN
TRUYỀN VỀ TỔ CHỨC HỘI VÀ PHONG TRÀO NÔNG DÂN
TỈNH HÀ NAM
Cùng với sự ra đời, phát triển của tổ chức Hội Nông dân Việt Nam,
Hội Nông dân tỉnh Hà Nam cũng sớm được hình thành và
có những đóng góp to lớn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng quê hương, đất
nước. Đến nay tổ chức Hội
Nông dân tỉnh được hình thành và phát triển ở 105 xã, phường, thị trấn với 715 chi hội, gồm: 647
chi hội thôn, xóm; 68 chi , 69 tổ hội nghề nghiệp; tổng số 151.126 hội viên, tỷ lệ
thu hút đạt 81,4% so với hộ nông dân toàn tỉnh (trong đó số hội viên tham gia các chi hội
nghề là 2.641 hội viên). Từ khi thành lập đến nay Hội Nông
dân tỉnh Hà Nam đã trải qua 11 kỳ Đại hội đại biểu, đó là những mốc son,
đánh dấu sự phát triển và trưởng thành, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được
giao trong từng thời kỳ.
Trải
qua 11 kỳ Đại hội, trong mỗi giai đoạn, Ban Chấp hành Hội Nông dân tỉnh luôn
đoàn kết thống nhất, vượt qua thách thức, xây dựng tổ chức Hội ngày càng lớn
mạnh, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, góp phần vào công cuộc phát
triển kinh tế xã hội, an ninh - quốc phòng, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
tỉnh.
* Đại hội đại biểu Nông dân tập thể tỉnh Hà Nam
Ninh lần thứ I, nhiệm kỳ 1976 - 1983, được tổ chức từ ngày 15 - 19/10/1976 tại
thành phố Nam Định.
Thực hiện Chỉ thị 209/CT-TƯ, ngày 18/9/1974 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng “về tổ chức Đại hội đại biểu Nông dân tập thể các
cấp”, từ ngày 15-19/10/1976 Hội đồng Nông dân tập thể tỉnh tổ chức Đại
hội đại biểu Nông dân tập thể tỉnh Hà Nam Ninh lần thứ nhất được
tổ chức tại Thành phố Nam Định.
Tham dự Đại hội có 350 đại biểu thay mặt cho trên 1,0
triệu nông dân, xã viên hợp tác xã trong toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra Ban
Chấp hành Hội đồng Nông dân tập thể tỉnh gồm 35 đồng chí. Ban Thường trực Hội
đồng gồm 8 đồng chí; Đồng chí Trần Tính được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng,
đồng chí Trần Văn Tuyên và đồng chí Phạm Văn Chương được bầu giữ chức Phó chủ
tịch Hội đồng, đồng chí Hoàng Tân là Thường trực Hội đồng.
Đại hội xác định phương hướng nhiệm vụ phong trào nông
dân và Hội Nông dân trong giai đoạn cách mạng mới là: “Nông dân tập thể Hà Nam
Ninh phấn đấu đưa nông nghiệp phát triển vượt bậc, tiến lên theo hướng sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa”.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư, ngày 28/3/1980
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Chỉ thị số 06 về việc thực hiện Chỉ thị số 78 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng. Thực hiện Chỉ thị số 06 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Hội
đồng Nông dân tập thể tỉnh tổ chức Hội nghị đại biểu toàn tỉnh vào ngày 10-11/4/1980 để
đổi tên Hội thành Hội liên hiệp Nông dân tập thể tỉnh Hà Nam Ninh và thành lập
Ban Chấp hành lâm thời trên cơ sở số Uỷ viên Ban Chấp hành cũ. Thường trực gồm
8 đồng chí, đồng chí Phạm Văn Chương được cử giữ chức chủ tịch Hội, các đồng
chí Vũ Thị Tâm, Trần Văn Tuyên được cử giữ chức Phó chủ tịch Hội. (Đến
Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Hà Nam Ninh lần thứ V nhất trí đánh giá và
coi Hội nghị tháng 4/1980 là một kỳ Đại hội - lần thứ IV).
Nhiệm vụ chủ yếu của Hội trong giai đoạn này là: “Vận
động nông dân tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: Cách mạng tư tưởng văn hoá,
cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng quan hệ sản xuất ở nông thôn; trong đó
cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt”.
* Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp Nông dân tập thể tỉnh
Hà Nam Ninh lần thứ II, nhiệm kỳ 1983-1987, được tổ chức
từ ngày 16- 18/11/1983 tại thành phố Nam Định.
Tham dự Đại hội có 333 đại biểu thay mặt cho hơn 80
ngàn hội viên về dự. Đại hội đã bầu ra 35 đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Hội
Liên hiệp Nông dân tập thể, 08 đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ tỉnh Hội; Đồng
chí Phạm Văn Chương được bầu giữ chức Chủ tịch Hội, các đồng chí Vũ thị Tâm,
Trần Văn Tuyên được bầu giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ chung là: “Ra sức
tuyên truyền, giáo dục động viên giai cấp nông dân tập thể phát huy lòng yêu
nước yêu Chủ nghĩa xã hội, tinh thần làm chủ tập thể, nêu cao ý thức tự lực, tự
cường, tinh thần chủ động sáng tạo, khắc phục khó khăn, dấy lên phong trào thi
đua lao động sản xuất, tiết kiệm, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, quyết
tâm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội trong kế hoạch 5 năm lần thứ 3, củng
cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước, thực
hiện tốt mối quan hệ công - nông liên minh, đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, xây dựng
nông thôn mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
* Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Hà
Nam Ninh lần thứ III, nhiệm kỳ 1987-1992, được tổ
chức từ ngày 11/7/1987 tại thành phố Nam Định.
Tham dự Đại hội có 247 đại biểu về dự. Đại hội đã bầu
ra 39 Uỷ viên Ban chấp hành, 9 đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ. Đồng chí Đỗ thị
Hồng Rây được bầu giữ chức Chủ tịch Hội, đồng chí Phạm Thanh Dưỡng giữ chức Phó
chủ tịch Hội.
Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm là: “Ra sức xây
dựng Hội Nông dân tập thể vững mạnh, vận động nông dân thực hiện những nhiệm
vụ, mục tiêu của Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, tập trung vào các chương trình kinh
tế xã hội là: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, dân số và
lao động. Tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng ở nông thôn; ra sức thi đua lao
động, sản xuất, tiết kiệm; vừa làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước, vừa đảm bảo
quyền lợi của nông dân, đấu tranh chống tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã
hội; tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, chống
âm mưu phá hoại nhiều mặt của địch, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa,
góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước”.
Mục tiêu phấn đấu trong nhiệm kỳ là: Có 40-50% số cơ sở
hoạt động khá, giỏi, thực hiện được 4 phong trào, 5 nhiệm vụ. 70% số hội viên
phấn đấu đạt danh hiệu “ Hội viên tiên tiến theo tiêu chuẩn “5 việc của hội
viên”.
Tháng 10/1988 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Tô
Xuân Giám giữ chức Phó Chủ tịch Hội.
* Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Nam Hà lần
thứ V, nhiệm kỳ 1992-1998, được tổ chức từ ngày 22 - 24/4/1992 tại thành phố Nam
Định.
Thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TU ngày 13/01/1992 của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Nam Ninh về việc “ Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện việc chia tách tỉnh Hà Nam Ninh, thành lập hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình. Thực
hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ và Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Đại hội đại biểu
Hội Nông dân tỉnh Nam Hà lần thứ V được tổ chức từ ngày 22-24/4/1992 tại thành
phố Nam Định.
Tham dự Đại hội có 245 đại biểu thay mặt cho hơn 52 vạn
hội viên về dự. Đại hội đã bầu 27 đồng chí là uỷ viên Ban Chấp
hành; 7 đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ; đồng chí Tô Xuân Giám được bầu giữ chức
Chủ tịch Hội, các đồng chí Phạm Bá Ninh và đồng chí Nguyễn Thị Kim Dung giữ
chức Phó Chủ tịch Hội.
Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát của hội là: “Xây dựng
tổ chức hội vững mạnh, động viên nông dân đẩy mạnh sản xuất, làm giàu, đoàn
kết, dân chủ, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới”.
Thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TU ngày 02/12/1996 của Ban
Chấp hành Tỉnh uỷ Nam Hà về việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chia tách địa giới
hành chính tỉnh Hà Nam và Nam Định. Ngay sau khi tái lập tỉnh, Ban Chấp hành
lâm thời Hội Nông dân tỉnh Hà Nam (gồm 9 đồng chí do đồng chí Phạm Bá Ninh giữ
chức Chủ tịch Hội, đồng chí Nguyễn Thị Kim Dung giữ chức Phó Chủ tịch Hội) sớm
ổn định tổ chức và triển khai các nhiệm vụ công tác Hội và phong trào nông dân
.
* Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Hà Nam lần
thứ VI, nhiệm kỳ 1998 - 2003, được tổ chức từ ngày 19 - 21/8/1998 tại thị xã Phủ Lý.
Tham dự Đại hội có 170 đại biểu thay mặt cho 97.206 hội
viên ở ở 6 huyện, thị xã; 112 cơ sở. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 21
đồng chí, 05 đồng chí trong Ban thường vụ; đồng chí Phạm Bá Ninh được bầu giữ
chức chủ tịch Hội, đồng chí Nguyễn Thị Kim Dung giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại hội đề ra phương hướng nhiệm kỳ 5 năm tới là: “Tập
hợp đông đảo nông dân vào tổ chức Hội, tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung và
phương thức hoạt động, xây dựng Hội vững mạnh về mọi mặt, thực sự làm nòng cốt
trong phong trào nông dân. Phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của nông dân trong
phong trào phát triển kinh tế - xã hội nông thôn xây dựng nông thôn mới. góp
phần tích cực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn”.
Tháng 6/2000 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí
Nguyễn Văn Hóa giữ chức Chủ tịch Hội thay đồng chí Chủ tịch Phạm Bá Ninh nghỉ
hưu.
Tháng 10/2001 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung các đồng chí
Nguyễn Thanh Nghị, Nguyễn Thị Bình giữ chức Phó chủ tịch Hội.
* Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Hà Nam lần thứ VII,
nhiệm kỳ 2003 – 2008, được tổ chức từ ngày 22 - 23/4/2003 tại Trung tâm văn
hóa tỉnh.
Tham dự Đại hội có 180 đại biểu thay mặt cho 116.301
hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra BCH gồm 25 đồng chí, Ban thường vụ
gồm 07 đồng chí; đồng chí Nguyễn Văn Hóa được bầu giữ chức chủ tịch Hội, các
đồng chí Nguyễn Thanh Nghị, Nguyễn Thị Bình giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại hội đề ra mục tiêu, nhiệm vụ công tác Hội 5 năm tới
là: “Tăng cường đoàn kết thống nhất, đổi mới nội dung phương thức hoạt động.
Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh toàn diện, Hội Nông dân là trung tâm và nòng cốt
phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng quê hương Hà Nam giàu mạnh văn
minh”.
Tháng 10/2005 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Kiều
Hữu Bình giữ chức Chủ tịch Hội thay đồng chí Chủ tịch Nguyễn Văn Hóa nghỉ hưu.
Tháng 8/2007 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Dương
Văn Bằng giữ chức Phó chủ tịch Hội.
* Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Hà Nam lần
thứ VIII, nhiệm kỳ 2008 – 2013, được tổ
chức từ ngày 22 - 23/4/2008 tại thị xã Phủ lý.
Tham dự Đại hội có 186 đại biểu thay mặt cho 135.382
hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 25 đồng chí, Ban
thường vụ gồm 7 đồng chí; đồng chí Kiều Hữu Bình được bầu giữ chức chủ tịch
Hội, các đồng chí Nguyễn Thị Bình, Dương Văn Bằng giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại hội đã đề ra 10 mục tiêu chỉ tiêu chủ yếu: (1)
Trong 5 năm phát triển 30.000 hội viên mới, cuối nhiệm kỳ tỷ lệ hội viên so với
lao động nông nghiệp đạt 60%; (2) Hàng năm có 80% cơ sở Hội; 70% chi tổ Hội đạt
tiêu chuẩn vững mạnh; (3) 100% cơ sở Hội, chi tổ Hội có quỹ; (4) Hàng năm 100%
huyện, thành Hội, cơ sở Hội; 60% chi Hội có báo, tạp chí của Hội; (5) Bình quân
hàng năm có 45% hộ hội viên nông dân đạt danh hiệu sản xuất kinh doanh
giỏi các cấp; (6) Tỷ lệ hội viên nghèo giảm còn 3% (mỗi năm giảm 1,18%); (7)
100% huyện, thị và các cơ sở Hội có quỹ Hỗ trợ nông dân và quản lý tốt các
nguồn quỹ khác; (8) Đạo tạo dạy nghề và tư vấn việc làm mỗi năm từ 10.000 lao
động trở lên; (9) Có trên 80% hộ hội viên nông dân đạt danh hiệu “Gia đình văn
hóa”; (10) 80% chi hội nhận duy tu bảo dưỡng đường giao thông nông thôn hoặc
các công trình hạ tầng khác trong nông thôn.
Tại Lễ Kỷ niệm 81 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt
Nam (14/10/1930 - 14/10/2011), Hội Nông dân tỉnh Hà Nam đã vinh dự được đón
nhận Huân chương Lao động Hạng Ba, phần thưởng cao quý của Nhà nước giành tặng
thưởng cho các cấp Hội Nông dân trong tỉnh và ghi nhận thành tích của cán bộ,
hội viên, nông dân tỉnh nhà thời gian qua.
Tháng 10/2008, Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Lê
Thị Hồng Lạng giữ chức Chủ tịch Hội thay đồng chí Chủ tịch Kiều Hữu Bình chuyển
công tác.
* Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Hà Nam lần
thứ IX, nhiệm kỳ 2013– 2018, được tổ chức từ ngày 17 - 18/4/2013, tại Thành
phố Phủ Lý.
Tham dự Đại hội có với 216 đại biểu thay mặt cho
166.964 hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra BCH gồm 31 đồng chí, Ban
thường vụ gồm 9 đồng chí; đồng chí Lê Thị Hồng Lạng được bầu giữ chức chủ tịch
Hội, các đồng chí Nguyễn Văn Đạo, Tống Văn Tam, Khổng Thị Thảo giữ chức Phó chủ
tịch Hội.
Đại hội đề ra 3 mục tiêu: (1)Nâng cao nhận thức cho cán
bộ, hội viên, nông dân về ý thức chính trị, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý, điều hành của Chính quyền, qua đó thực hiện tốt chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; (2)Tuyên truyền thu hút
đông đảo nông dân vào Hội; xây dựng tổ chức Hội các cấp ngày càng vững mạnh; nâng
cao vai trò, vị thế của Hội thực sự xứng đáng là trung tâm, nòng cốt cho phong
trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới, xây dựng khối Đại đoàn kết
toàn dân tộc; (3)Tổ chức tốt 3 phong trào thi đua của Hội nhằm tạo chuyển biến
mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nông
thôn trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững,
sản xuất hàng hóa; tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông
nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; thực hiện thành công chương trình
xây dựng nông thôn mới.
Tại Lễ Kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt
Nam (14/10/1930 - 14/10/2015), Hội Nông dân tỉnh Hà Nam đã vinh dự được đón
nhận Huân chương Lao động Hạng Nhì, phần thưởng cao quý của Nhà nước giành tặng
thưởng cho các cấp Hội Nông dân trong tỉnh và ghi nhận thành tích của cán bộ,
hội viên, nông dân tỉnh nhà trong giai đoạn 2011 - 2015.
Tháng 9/2014 Hội nghị BCH đã bầu kiện toàn đồng chí
Khổng Thị Thảo giữ chức Chủ tịch Hội thay đồng chí Chủ tịch Lê Thị Hồng Lạng
nghỉ hưu.
Tháng 9/2018 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Tạ
Văn Đạt giữ chức Phó Chủ tịch Hội
* Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Hà Nam lần
thứ X, nhiệm kỳ 2018-2023, được tổ chức từ ngày 4 - 5/10/2018 tại Nhà Văn hóa
Trung tâm tỉnh.
Đây là Đại hội của tinh thần: “Dân chủ - Đoàn kết – Đổi mới– Hội nhập –
Phát triển”. Tham dự Đại hội có 230 đại biểu thay mặt
cho trên 178.000 hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra BCH gồm 24 đồng
chí; Ban Thường vụ gồm 06 đồng chí; đồng chí Tạ Văn Đạt được bầu giữ chức Chủ
tịch Hội, đồng chí Tống Văn Tam giữ chức Phó Chủ tịch Hội.
Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm kỳ 2018-2023 là:
“Hội Nông dân tỉnh Hà Nam tiếp tục phát huy sức mạnh đoàn kết, năng
động, sáng tạo, xây dựng giai cấp nông dân là chủ thể trong phát triển
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững, đi đầu thực hiện
thắng lợi “Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018 -
2020” và Chương trình “Tuyên truyền, vận động sản xuất, kinh
doanh nông sản thực phẩm an toàn vì sức khỏe cộng đồng giai đoạn 2017- 2020”; chủ
động hội nhập quốc tế; xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, xứng đáng là
trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn
mới; tham gia có hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh và
khối đại đoàn kết dân tộc...”.
Đại hội đề ra 4
mục tiêu: (1)Xây dựng Hội Nông dân tỉnh Hà Nam trong sạch, vững mạnh và tổ chức bộ
máy tinh gọn, hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác nông vận; tích cực
vận động hội viên, nông dân phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới,
giảm nghèo bền vững. Thực hiện tốt công tác tập hợp, đoàn kết, phát huy dân
chủ, sức sáng tạo, khả năng liên kết, hợp tác của hội viên, nông dân; tham mưu
cho Đảng và phối hợp với các cơ quan Nhà nước xây dựng chủ trương, cơ chế,
chính sách đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, nông dân;
(2)Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả Phong trào “Nông dân thi đua sản
xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”; huy
động các nguồn lực hỗ trợ hội viên, nông dân phát triển sản xuất,
kinh doanh, nhất là hội viên, nông dân khởi nghiệp thành công,
hợp tác phát triển sản xuất, kinh doanh hiệu quả, cải thiện chất lượng cuộc
sống, giảm nghèo bền vững; (3) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực vận động nông dân
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; (4) Nâng cao chất lượng hội viên và xây dựng giai cấp
nông dân vững mạnh; tăng cường tập huấn, đào tạo, cung cấp thông tin, tiến
bộ khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất, kinh doanh; xây dựng lực lượng lao
động nông thôn có tác phong công nghiệp, có năng lực quản lý và kỹ năng sản
xuất chuyên nghiệp đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuẩt hàng hóa và
áp dụng các thành quả của nền nông nghiệp 4.0; thực hiện ngày càng tốt vai
trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội giữ vững ổn định chính trị - xã hội, quốc
phòng- an ninh của tỉnh.
Đồng thời đề ra một số chỉ tiêu như: Kết nạp được
20.000 hội viên mới; hàng năm có từ 60% số hộ nông dân trở lên đăng ký phấn đấu
và có từ 50% số hộ đăng ký trở lên đạt danh hiệu sản xuất kinh doanh giỏi các
cấp; hỗ trợ giảm nghèo từ 800 - 1.000 hội viên nghèo/năm; phối hợp vận động trên
90% hộ hội viên, nông dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện;100% cơ sở hội tổ
chức cho hội viên nông dân sản xuất kinh doanh nông sản đăng ký, cam kết đảm
bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Hội Nông dân tỉnh Hà
Nam (Khóa X) họp ngày 28/6/2019 đã thông qua 02 Nghị quyết về xây dựng
Hội và đẩy mạnh phong trào nông dân: Nghị quyết số 01- NQ/HNDT “về nâng
cao chất lượng công tác xây dựng hội, trọng tâm là xây dựng cơ sở hội; chi hội;
tổ hội giai đoạn 2019 - 2023”, Nghị quyết số 02 - NQ/HNDT“về phát
triển mô hình kinh tế của Hội giai đoạn 2019 - 2023”.
Tháng 9/2021 Hội nghị Ban Chấp hành đã bầu bổ sung đồng
chí Ngô Văn Toản giữ chức Phó Chủ tịch Hội.
Tháng 5/2023 Hội nghị Ban Chấp hành đã bầu bổ sung đồng
chí Nguyễn Mạnh Tuấn giữ chức Chủ tịch Hội thay đồng chí Chủ tịch Tạ Văn Đạt
nghỉ hưu.
* Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Hà Nam lần
thứ XI, nhiệm kỳ 2023-2028, được tổ chức từ ngày 19 - 20/9/2023 tại Nhà Văn hóa
Trung tâm tỉnh.
Đây là Đại hội của tinh thần:“Đoàn
kết - Dân chủ - Sáng tạo - Hợp tác - Phát triển”, Tham dự Đại hội
có 205 đại biểu thay mặt cho trên 151126 hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội đã
bầu ra Ban Chấp hành gồm 24 đồng chí; Ban Thường vụ gồm 07 đồng chí; đồng chí
Nguyễn Mạnh Tuấn tái cử được bầu giữ chức Chủ tịch Hội, các đồng chí Ngô Văn Toản, Nguyễn Thị Phương
Quỳnh giữ chức Phó Chủ tịch Hội.
Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm kỳ 2023-2028 là:
“xây dựng Hội Nông dân và hội viên nông
dân Hà Nam vững mạnh; khơi dậy khát vọng, phát huy vai trò chủ thể, trung tâm của
nông dân trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới,
góp phần xây dựng tỉnh Hà Nam giàu đẹp, văn minh; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; tuyên
truyền, vận động hội viên, nông dân tích cực tham gia thực hiện nhiệm vụ chính
trị của địa phương; tổ chức có hiệu quả các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ
trợ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh; nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội; tích cực tham gia thực hiện
các chương trình mục tiêu quốc gia, trực tiếp thực hiện một số chương
trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn góp phần thực hiện thành công mô hình
“Nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại,
nông dân văn minh”; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX”.
Đại hội đề ra 5 mục tiêu: (1) Xây dựng Hội Nông dân tỉnh Hà
Nam mạnh về tổ chức, vững về
phong trào, hiệu quả trong hỗ trợ nông dân đáp ứng yêu cầu công tác nông
vận trong tình hình mới; Hội Nông dân phải là chủ thể tích cực trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Tham mưu chính xác, kịp
thời với cấp uỷ Đảng, chính quyền xây dựng chủ trương, cơ chế, chính sách đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho hội viên, nông dân; xây dựng đội ngũ
cán bộ Hội các cấp đủ phẩm chất, năng lực, tâm huyết với công
tác Hội và phong trào nông dân, tận tụy phục vụ nông dân; phát triển và nâng
cao chất lượng hội viên, xây dựng và củng cố cơ sở Hội vững mạnh.( 2) Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp, đoàn
kết nông dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân ngày càng được
nâng cao cùng với sự phát triển của đất nước, của tỉnh; đẩy mạnh các hoạt động
dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh gắn với bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, nông dân, nâng cao năng lực
làm chủ của nông dân. (3) Tiếp tục đổi mới và nâng cao
hiệu quả các phong trào nông dân; đẩy mạnh phong trào “Nông dân thi đua sản
xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”
gắn với hỗ trợ nông dân khởi nghiệp, phát
triển các mô hình liên kết, hợp tác theo chuỗi giá trị, các mô hình kinh
tế tập thể (Tổ hợp tác, Hợp tác xã); huy động tối đa các nguồn lực hỗ trợ hội
viên, nông dân xây dựng mô hình trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn. (4) Xây dựng Hội nông dân vững mạnh, người nông
dân văn minh, nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng sản xuất, kinh doanh, năng lực đổi mới sáng tạo, ý thức trách
nhiệm xã hội, tôn trọng pháp luật và nếp sống văn minh của người nông dân; khơi
dậy ý chí, tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên, phát huy vai trò chủ thể,
trung tâm của nông dân tích cực tham gia phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường
sinh thái. (5) Nâng cao chất lượng hoạt động tham gia giám sát, phản
biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hoạt động đối ngoại nhân dân, thu hút các nguồn lực góp phần nâng cao hiệu quả công tác Hội và phong trào nông
dân.
Đồng thời đề ra 14 chỉ tiêu: (1) Đảm bảo 100% cán bộ, hội viên được
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và nghị quyết của Hội. (2) 100% cán bộ Hội
chuyên trách các cấp và Chi hội trưởng chi Hội Nông dân được trang bị kiến thức
về nông nghiệp, kỹ năng nông vận, nghiệp vụ công tác Hội. (3) Kết nạp 10.000 hội viên mới; thành lập mới
105 Chi Hội Nông dân nghề nghiệp, 210 Tổ Hội Nông dân nghề nghiệp. (4) Có từ 90% cơ sở Hội hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên. (5) Duy
trì 100% chi Hội có quỹ. Phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ quỹ Hội đạt bình quân trên
150.000 đồng/hội viên. (6)
Trực tiếp, phối hợp đào tạo, bồi dưỡng nghề cho 500 hội
viên trở lên mỗi năm; chủ động phối hợp hỗ trợ hộ nông dân có tài khoản trên sàn thương mại điện tử. (7) Phấn đấu có trên
97% hội viên tham gia bảo hiểm
y tế; trên 3.000 hội viên tham gia đóng
bảo hiểm xã hội. (8) Hằng năm
có trên 60% số hộ nông dân đăng ký phấn đấu và có trên 50% số hộ đăng ký đạt
danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp; 100% cơ sở hội thực hiện
tốt việc phối hợp hỗ trợ, giúp đỡ giảm nghèo cho trên 800 hộ nghèo mỗi năm. (9) Có từ 30% số hội viên trở lên tham gia tổ hợp tác, hợp tác xã; hỗ trợ
thành lập mới ít nhất 01 mô hình kinh tế tập thể (Hợp tác xã, Tổ hợp tác). (10) Có 100% hộ hội viên nông dân sản xuất,
kinh doanh ký cam kết đảm bảo an
toàn vệ sinh thực phẩm. (11) Tăng
trưởng quỹ hỗ trợ nông dân bình quân từ 10%/năm trở lên. (12) Phấn đấu 100% cơ sở Hội có mô hình về bảo vệ
môi trường. (13) Hằng năm, Hội Nông dân các cấp chọn từ 1-2 nội
dung tham gia giám sát và phản biện xã hội. (14) Phấn
đấu trên 500 học sinh là con hội viên nông dân có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ,
giúp đỡ với chương trình“Tiếp sức con nông
dân vượt khó”.
*
*
*
93 năm đồng hành cùng đất nước, tự hào về truyền thống
cách mạng vẻ vang; lòng yêu nước và tuyệt đối trung thành với Đảng; thông minh,
dũng cảm trong chiến đấu; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; nhân ái và
thủy chung. Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng cùng với giai cấp nông dân và Hội Nông
dân Việt Nam, các cấp Hội Nông dân và hội viên nông dân tỉnh Hà Nam tiếp tục
phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường đoàn kết, thống nhất, quyết tâm khắc
phục khó khăn, vượt qua mọi thách thức, tranh thủ thời cơ, thuận lợi, nỗ lực phấn
đấu “Xây dựng Hội
Nông dân Hà Nam vững mạnh; khơi dậy khát vọng và vai trò chủ thể, trung tâm của
nông dân trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng
nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu, góp phần xây dựng tỉnh Hà Nam giàu đẹp, văn minh, phấn đấu
đạt mức phát triển khá của vùng đồng bằng Bắc bộ” ./.
BAN XÂY DỰNG HỘI- HỘI NÔNG
DÂN TỈNH HÀ NAM