Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 - 14/10/2020)
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 90 NĂM
NGÀY THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
(14/10/1930 - 14/10/2020)
(Ban hành kèm theo Kế hoạch số 47- KH/HNDTW, ngày 15/4/2020
của
Ban Thường vụ Hội
Nông dân tỉnh Hà Nam)
I. SỰ RA ĐỜI NÔNG HỘI ĐỎ, TIỀN THÂN CỦA HỘI
NÔNG DÂN VIỆT NAM
Đầu năm 1920, sau khi dập tắt các cuộc khởi nghĩa của nông dân,
ruộng đất nước ta chủ yếu tích tụ vào tay một số ít địa chủ Pháp, phong kiến,
quan lại, địa chủ thường và địa chủ kiêm công thương đã làm xã hội phân hóa
mạnh mẽ. Giai cấp địa chủ chiếm 9% tổng số chủ ruộng nhưng lại sở hữu trên 50%
diện tích đất canh tác. Tiểu nông chiếm trên 90% tổng số chủ ruộng nhưng lại
chỉ có gần 40% diện tích trồng trọt. Ngoài ra còn khoảng 2,2 triệu hộ trong
tổng số 4 triệu hộ nông thôn lúc bấy giờ hoàn toàn không có đất. Họ bị bóc lột
dã man bởi tô, tức, thuế…
Đời sống nông dân dưới thời
Pháp thuộc vô cùng nghèo nàn, đau khổ. Song chính trong sự áp bức bóc lột tàn
bạo của thực dân Pháp và tay sai đã khiến cho họ nhận rõ bộ mặt thực của kẻ thù
dân tộc và kẻ thù giai cấp. Bằng những kinh nghiệm trực tiếp của mình, giai cấp
nông dân đã tiến từng bước tới giác ngộ chính trị. Họ sẵn sàng ủng hộ, đi theo
các phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì quyền lợi của người lao động.
Nguyễn Ái Quốc là người cộng
sản đầu tiên của Việt Nam, từ lâu, Người đã hiểu và gắn bó với nông dân Việt
Nam. Trong cuốn Đường Kách mệnh (1927), đồng chí Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề nông dân Việt Nam muốn thoát khỏi
ách áp bức, bóc lột thì phải “tổ chức nhau lại”, vì vậy, Người đã dành riêng
một chương phân tích về tình hình nông dân Việt Nam và tầm quan trọng của “Tổ chức dân cày” (1). Vạch rõ nguồn gốc
đói nghèo, đau khổ của nông dân Việt Nam chính là do sự áp bức, bóc lột tàn
nhẫn của đế quốc, phong kiến và bè lũ tay sai. Vì vậy “Nếu dân cày An Nam muốn thoát khỏi vòng cay đắng, thì phải tổ chức
nhau kiếm đường giải phóng”; (2). Giai cấp nông dân cần phải có tổ chức
riêng của mình là Hội dân cày. Nhưng trong tình hình hiện tại chưa nên gọi là
Hội dân cày, mà nên gọi là phường lợp nhà, phường đánh cá, phường chung lúa…
Ngày 1/11/1929, Báo “Dân cày” số đầu tiên của
tỉnh Ninh Bình được phát hành, nội dung tờ báo tố cáo sự bóc lột dã man của
thực dân, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh chống đế quốc cướp nước và đánh
đổ tay sai.
Cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX,
Nông hội đỏ đã xuất hiện ở một số địa phương. Tháng 11/1929, Ban Chấp hành Tổng
Nông hội Nghệ An ra đời, do đồng chí Phan Thái Ất làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo
của xứ ủy Trung Kỳ, ngày 10/12/1929 ở thành phố Vinh - Bến Thủy và một số vùng
ở Nghệ An rải truyền đơn kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia các tổ chức
quần chúng của Đảng cộng sản. Truyền đơn có phần kêu gọi Dân cày gia nhập Nông
hội, theo Đảng Cộng sản đấu tranh đòi bỏ thuế người,
thuế vườn, thuế chợ, thuế đò, bỏ lệ bắt phu… Tiếp theo nhiều tổ chức Nông hội
đỏ được thành lập ở Thái Bình, Hà Nội, Hà Đông, Hải Phòng, Hải Dương và các
tỉnh Trung Kỳ, Nam Kỳ…
Đầu
năm 1930, Hội nghị hợp
nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Cửu Long (Hương Cảng -
Trung Quốc), trong Sách lược vắn tắt của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự
thảo, được Hội nghị hợp nhất thông qua ngày 03/02/1930 đã nêu ra những vấn đề
cơ bản đối với giai cấp nông dân: “Đảng
phải thu phục cho được đại đa số dân cày nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến''; đồng
thời, Đảng nhấn mạnh ''Nông dân là lực
lượng to lớn của cách mạng". Vì vậy, phải tập hợp nông dân vào một tổ
chức dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đấu tranh giành độc lập tự do và
thực hiện cách mạng ruộng đất.
Cao trào
cách mạng 1930 - 1931, dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương, các tổ chức
Nông hội cấp cơ sở được hình thành ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, đặc biệt là ở Nghệ -
Tĩnh. Nông dân cả nước đã vùng lên đấu tranh cùng với công nhân giành thắng lợi
từng bước. Chỉ tính từ tháng 5/1930 - 10/1930 cả nước có 53.000 hội viên nông
hội.
Trên
cơ sở đó, Hội nghị lần thứ Nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong tháng
10/1930 tại Hương Cảng đã thông qua bản Luận cương chính trị, trong đó nêu rõ: “Dân cày là hạng người chiếm đại đa số ở
đông Dương (hơn 90 phần trăm), họ là một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân
quyền”. Luận cương vạch rõ: “Vấn đề
thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp có đứng đầu
và cùng với quần chúng dân cày để tranh đấu và binh vực quyền lợi hằng ngày cho
dân cày và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để thì mới giành quyền lãnh
đạo dân cày được”.
Cùng
với việc thông qua Luận cương chính trị, Hội nghị còn ra Nghị quyết về Tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ
cần kíp của Đảng, trong đó nêu rõ các quyết định quan trọng của Hội nghị,
một trong các quyết định đó là “phải chỉnh đốn Nông hội lại cho có hệ thống
theo điều lệ mới và dự bị việc tổ chức Đông Dương Tổng Nông hội”.
Tại
Hội nghị quan trọng này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về
thành lập Tổng Nông hội Đông Dương và thông qua Điều lệ Tổng Nông Hội Đông
Dương gồm 8 điều trong đó nêu rõ mục đích ''Thống
nhất hết thảy Tổng Nông Hội Đông Dương để tranh đấu bênh vực quyền lợi hàng
ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng thổ địa''. Điều lệ Tổng Nông
hội Đông Dương quy định: “Hễ Nông hội nào
thừa nhận mục đích, Điều lệ và chịu thi hành những án nghị quyết của Tổng Nông
hội Đông Dương và nộp hội phí thì được nhận làm hội viên”. trong đó trọng
tâm là xây dựng tổ chức Nông hội, cơ sở của Nông hội là làng. Tổ chức phải theo
hệ thống dọc: từ tổng Tổng Nông hội, huyện
Tổng Nông hội, tỉnh Tổng Nông hội, xứ Tổng Nông hội, đông Dương Tổng Nông hội.
Cũng tại hội nghị này Điều lệ Nông hội làng được thông qua. Mục đích của Nông
hội làng là đoàn kết hết thảy bần và trung nông trong làng, liên hiệp với nông
dân và công nhân các nơi trong nước để đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bênh
vực quyền lợi của nông dân và thực hiện cách mạng ruộng đất.
Việc
thành lập Tổng Nông hội Đông Dương (tên gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt Nam
ngày nay) đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử giai cấp nông dân
Việt Nam, sự trưởng thành và lớn mạnh về của phong trào nông dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
II. HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
1. Hội Nông dân Việt Nam và cuộc vận động
cách mạng giải phóng dân tộc (1930 - 1945)
Ngày
20/3/1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về vấn đề chỉnh đốn Nông
hội đỏ, trong đó khẳng định vai trò to lớn của Nông hội trong cách mạng, giai
cấp nông dân “là một lực lượng chính của
cách mạng”. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai, tháng 3/1931 nhấn mạnh: Cần phải đẩy mạnh việc tổ chức Nông hội
làng, tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng, đồng thời chỉ rõ: trong điều kiện địch khủng bố trắng, nông
dân cùng các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh, giương cao khẩu hiệu: chống
sưu thuế, địa tô, chống nạn thất nghiệp, chống khủng bố trắng, chống cải lương
lừa dối, chống chiến tranh….
Thực
hiện Nghị quyết Trung ương hai, các tổ chức Nông hội được củng cố và trực tiếp
lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân. Tháng 6/1932 Trung ương Đảng đã
khởi thảo Chương trình hành động nhằm khôi phục nhanh chóng phong trào cách
mạng, đồng thời đề ra phương hướng đấu tranh và những biện pháp cụ thể phù hợp
với tình hình mới. Chủ trương của Đảng nêu rõ: phải tận dụng mọi khả năng hợp
pháp, nửa hợp pháp để tổ chức đấu tranh và phát triển tổ chức bí mật (Nông
hội). Trên cơ sở Chương trình hành động của Đảng, Chương trình hành động của
Nông hội ra đời bao gồm 10 điểm.
Tháng
3/1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp, đề ra đường lối chính trị và
phương pháp tổ chức mới, tên của các tổ chức quần chúng đều được thay đổi cho
phù hợp với tình hình mới. Quyết định lấy tên Nông hội thay Nông hội đỏ. Nông dân có tổ chức chính là Nông hội và
có thể tổ chức nhiều hội: hội tương tế, ái hữu, hợp tác xã, hội cấy, hội gặt,
hội hiếu hỉ, hội góp họ, phường đi săn, hội chèo, nhóm học quốc ngữ... đã thu
hút đông đảo nông dân đấu tranh giành quyền lợi của giai cấp mình. Chủ trương
đúng đắn và kịp thời của Đảng đã giúp cho Nông hội khắp nơi trong nước phát huy
vai trò của mình trong việc tập hợp, lãnh đạo nông dân hợp lực với công nhân và
nhân dân lao động đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ.
Trong
năm 1937, có hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân chống cướp ruộng đất, đòi chia
ruộng công, giảm tô, tức, khất thuế,...Từ tháng 01 - 11/1938, có 125 cuộc đấu
tranh của nông dân với 55.442 người tham gia.
Hội
nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám, tháng 5/1941 khẳng định nhiệm vụ giải phóng
dân tộc, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất thay bằng khẩu hiệu tịch thu
ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho dân cày nghèo, thực hiện giảm tô,
giảm tức; thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh);
Mặt trận các đoàn thể lấy tên là Cứu quốc.
''Nông
hội từ nay gọi là Việt Nam Nông dân cứu quốc hội, là một bộ phận của Việt Nam độc lập đồng minh; thu
nạp hết thảy nông dân đến cả hạng phú nông, địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp -
Nhật''. Điều lệ Việt Nam Nông dân cứu quốc hội được Hội nghị tháng 5/1941
thông qua gồm 11 điều. Mục đích liên hiệp hết thảy các hạng nông dân yêu nước
để binh vực quyền lợi hàng ngày cho nông dân và cùng với các đoàn thể khác
chuẩn bị đánh Pháp đuổi Nhật giành quyền độc lập lại cho nước Việt Nam. Hội lấy
làng, ấp làm cơ sở,…có Ban chấp hành hội chỉ huy, làng, tổng, tỉnh, xứ và toàn
quốc.
Từ
đầu năm 1941, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, nông dân
các dân tộc Cao Bằng đã tổ chức những đoàn thể cứu quốc đầu tiên. Sau đó, nông
dân từ miền ngược đến miền xuôi nô nức tham gia vào các đoàn thể của Mặt trận
Việt Minh. Nông dân cứu quốc hội là lực lượng to lớn của Mặt trận Việt
Minh, đồng thời nông dân còn chiếm đại đa số trong hầu hết các tổ chức cứu quốc
ở nông thôn như: thanh niên, phụ nữ ... tạo nên một lực lượng chính trị rộng
lớn, áp đảo kẻ thù. Các tổ chức nông dân cùng với công nhân đã trở thành
''xương sống'' của Mặt trận. Từ các bản làng heo hút ở vùng rừng núi Việt Bắc
đại ngàn xuống đến vùng châu thổ sông Hồng hay trong các thôn xóm của Trung Kỳ,
Nam Kỳ, các đội tự vệ cứu quốc mà lực lượng chủ yếu là thanh niên nông dân ưu
tú đã lần lượt ra đời làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh của quần chúng.
Năm
1941 - 1942, dưới sự lãnh đạo của Nông dân cứu quốc hội, nông dân đã đấu tranh
chống thu thóc, chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu... Từ năm 1943,
với khẩu hiệu ''Đoàn kết toàn dân đánh
đuổi Nhật - Pháp'', đã đưa nông dân tham gia mạnh mẽ vào các phong trào đấu
tranh với những hình thức như biểu tình chống Nhật, vũ trang đánh Nhật… Sau
ngày Nhật đảo chính Pháp (ngày 09/3/1945), phong trào ''Phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói'' đã lôi cuốn hàng triệu
nông dân vùng lên đấu tranh trực diện với kẻ thù. Qua phong trào đấu tranh các
tổ chức cứu quốc của nông dân càng phát triển mạnh mẽ, góp sức vào làn sóng
khởi nghĩa từng phần đang nổi lên cuồn cuộn trong cả nước, làm tan rã từng mảng
chính quyền cơ sở của phát xít, tay sai, tạo nên khí thế cách mạng sôi sục, đưa
cả nước hừng hực bước vào cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Thành
công vĩ đại của Cách mạng tháng Tám là một minh chứng cho tinh thần, khả năng
và vai trò cách mạng to lớn của nông dân với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Đồng thời, là một thắng lợi của sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng đối với
các tổ chức của giai cấp nông dân, thể hiện sự gắn bó giữa Đảng với nông dân,
nông dân với Đảng.
2. Giai cấp nông dân Việt Nam và Hội Nông dân
Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải
phóng miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước (1945 - 1975)
Trong điều kiện chiến tranh
ngày càng lan rộng với mức độ gay go ác liệt hơn, nhiệm vụ kháng chiến càng đòi
hỏi phải động viên toàn thể nông dân tham gia trên tất cả các mặt trận. Đảng và
Nhà nước ta chủ trương thành lập Ban Nông vận Trung ương, kiện toàn tổ chức ở
cấp Trung ương.
Ngày
06/8/1949, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 02 – NQ/TW về việc
thành lập Ban Nông vận Trung ương, gồm 6 đồng chí: Hồ Viết Thắng, Nguyễn Hữu
Thái, Nguyễn Mạnh Hồng, Phạm Xuân Di, Trương Việt Hùng, Trần Đào, đồng chí Hồ
Viết Thắng - Ủy viên Trung ương Đảng làm
Trưởng ban.
Với nhiệm vụ của Ban Nông vận Trung ương là vận động nông dân:
tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, nuôi dưỡng bộ đội, xây dựng hợp tác xã,
hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức, đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mù chữ.
Thực hiện chủ trương trên Ban Nông vận Trung ương đã tổ chức Hội nghị cán bộ
nông dân toàn quốc lần thứ nhất họp từ ngày 28/11 – 07/01/1949 tại thôn Phong
Vân, xã Tân Tiến, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Dự Hội nghị có đông
đảo cán bộ đại diện cho tổ chức Hội Nông dân ba miền Bắc, Trung, Nam. Hội nghị
đã tập trung kiểm điểm, đánh giá ưu, khuyết điểm của tổ chức Hội, phong trào
nông dân, đặc biệt là đánh giá vai trò của tổ chức và hoạt động của phong trào
nông dân từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Trong
thư gửi Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò và tiềm lực
lớn lao của giai cấp nông dân cả nước trong đấu tranh giành chính quyền và sự
nghiệp kháng chiến. Hội nghị đã nhất trí thành lập Hội Nông dân cứu quốc Trung ương (sau
đổi tên là Ban Liên lạc Nông dân toàn quốc). Lần đầu tiên trong lịch sử Hội và
phong trào nông dân, giai cấp nông dân có một tổ chức Hội ở cấp Trung ương, đáp
ứng nguyện vọng của nông dân cả nước.
Ngày 16/4/1951 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 09 – NQ/TW về “Thành lập các ban và tiểu ban giúp việc”, trong đó có Tiểu ban Nông
vận gồm có 8 đồng chí: Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng làm Trưởng ban và
các đồng chí Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần Đức Thịnh, Phạm Xuân Dy,
Nguyễn Mạnh Hồng, Nguyễn Ca, Trần Đào.
Phong trào nông dân từ sau Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ
nhất có bước phát triển mới, toàn diện và rất mạnh mẽ. Để tiếp tục đánh giá
phong trào nông dân và tổ chức Hội. Ban Liên lạc nông dân toàn quốc quyết định
triệu tập Hội nghị cán bộ nông dân toàn quốc lần thứ Hai, tháng 5/1951,
tại thôn Đồng Quắc, xã Bình Nhân, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Dự Hội nghị có hơn 100 đại biểu đại
diện cho giai cấp nông dân cả nước. Hội nghị đánh giá phong trào nông dân, hoạt
động của tổ chức Hội và quán triệt nhiệm vụ Hội Nông dân trước yêu cầu nhiệm vụ
đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tới toàn thắng. Đồng chí Trường Chinh,
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng tới dự và phát biểu. Đồng chí Tổng Bí
thư dành nhiều thời gian nói về Chính cương, quan điểm của Đảng đối với nông
dân và chính sách ruộng đất. Hội nghị đã tập trung quán triệt những nhiệm vụ
mới của Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào nông dân và xây dựng tổ chức Hội
đáp ứng với những yêu cầu trước mắt.
Ngày 08/3/1956, Ban Bí thư Trung
ương Đảng ban hành Nghị quyết số 05 – NQ/TW về “Thành lập Ban Công tác nông thôn của Đảng”, lãnh đạo Ban Công tác nông
thôn, gồm Trưởng ban là đồng chí Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng (4/1956
- 10/1956); các đồng chí Phó Trưởng ban: Nguyễn Mạnh Hồng, Nguyễn Hữu Khiếu,
Trần Đức Thịnh; các đồng chí Ủy viên: Nguyễn Hữu Thái, Trương Việt Hùng, Phạm
Xuân Di, Trần Đào, Nguyễn Ca.
Ở miền Bắc
Với
tinh thần ''Tất cả cho tiền tuyến, tất cả
để chiến thắng'', nông dân đã hăng hái tham gia "Phong trào thi đua ái quốc sản xuất lập công đề cao chiến sĩ'' do
Đảng và Chính phủ phát động. Các cấp Hội nông dân đã tập trung vận động thực
hiện các phong trào, như: xây dựng “Cánh
đồng 5 tấn”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, phong
trào thanh niên nông thôn lên đường tòng quân giết giặc, bảo vệ Tổ quốc…
Hội Nông dân trong các vùng địch tạm chiếm đã
tiến hành nhiều hình thức đấu tranh như bám ruộng đất, làng xóm để sản xuất; lên án hành động bắn phá, đốt
hoa màu của địch; tranh thủ sản xuất, thu hoạch và cất giấu lương thực, thực
phẩm ở vùng địch hậu trong cả nước để đảm bảo được nhu cầu của nhân dân mà còn
đóng góp cho Nhà nước, phục vụ sự nghiệp kháng chiến.
Phong
trào cách mạng của giai cấp nông dân và Hội Nông dân đã đóng góp quan trọng vào
thắng lợi của các chiến dịch. Chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ ngày 07/5/1954
và thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ ngày 20/7/1954 về Đông Dương mở ra một thời
kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Hoà bình được lập lại ở Đông Dương, miền Bắc
hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam
Được
đế quốc Mỹ giúp sức, chính quyền Ngô Đình Diệm đã trắng trợn vi phạm Hiệp định
Giơnevơ và tập trung sức củng cố bộ máy thống trị phản động, đẩy mạnh việc xây
dựng quân đội ngụy làm lực lượng xung kích chống cộng và đàn áp nhân dân. Thực
hiện chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng, dưới sự lãnh đạo của các tổ
chức Đảng ở nông thôn miền Nam, Nông hội vừa tích cực tổ chức, vận động nông
dân chuẩn bị đấu tranh lâu dài, vừa khẩn trương tranh thủ thời gian trước khi
bàn giao các địa bàn cho đối phương để củng cố sản xuất, ổn định đời sống. Nam
Bộ và khu V tiếp tục đẩy mạnh việc chia cấp ruộng đất cho nông thôn nâng tổng
số ruộng đất chia cho đồng bào lên 750.000ha cho 1.299.000 hộ nông dân.
Phong
trào đấu tranh chính trị của nông dân miền Nam diễn ra hết sức mạnh mẽ, quyết
liệt. Các làng, xã chiến đấu được hình thành và phát triển.
Ngày
20/12/1960, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam đã họp tại căn cứ Bắc Tây Ninh,
tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ngày
21/4/1961, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức được thành
lập và là thành viên của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự ra
đời của Hội là một mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển của tổ chức nông dân, mà
trên thực tế hàng ngàn cơ sở Nông hội cứu quốc ở các khu, tỉnh, huyện, xã đã
được phục hồi trong thời gian Đồng khởi.
Để phát huy những thành quả đạt được sau 5 năm
hoạt động, tháng 01/1965 Đại hội lần thứ nhất của Hội Nông dân Giải phóng miền
Nam được khai mạc. Đại hội đã đánh giá tình hình họat động của Hội từ khi ra
đời và quán triệt yêu cầu nhiệm vụ mới của nông dân trong đấu tranh chống kế
hoạch bình định nông thôn của ngụy quyền Sài Gòn. Đại hội đã biểu dương những
thành tích to lớn của nông dân miền Nam trong việc phát triển thế trận chiến
tranh nhân dân và chiến tranh du kích, đánh địch bảo vệ vùng giải phóng,
vùng căn cứ cách mạng và là lực lượng chủ yếu trên mặt trận sản xuất, bảo đảm
đời sống và cung cấp hậu cần cho bộ đội ở tiền phương đánh giặc.
Qua Đại hội I Hội Nông dân Giải phóng miền Nam,
phong trào của Hội tiếp tục được phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất
lượng. Lúc này bộ máy tổ chức của Hội Nông dân Giải phóng miền Nam đã hình
thành theo 5 cấp: Miền, Khu, Tỉnh, Huyện và Xã. Xã là tổ chức cơ sở của Hội, xã
có Ban Chấp hành, dưới xã có Ban cán sự thôn, ấp và tiểu tổ Hội. Bộ máy của Hội
được củng cố từ Xã lên Huyện, Tỉnh và Khu.
Tháng
7/1965, Hội Nông dân giải phóng miền Nam đã ban hành dự thảo Điều lệ hoạt động
của Hội nhằm tiếp tục mở rộng hoạt động của các cấp Hội cơ sở, phát triển hội
viên và động viên nông dân phát huy vai trò tích cực của mình trong sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tháng
1/1969, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến hành Đại hội lần thứ
II, nhằm tổng kết phong trào đấu tranh của nông dân trong tám năm, đồng thời
quán triệt yêu cầu và nhiệm vụ mới của nông dân trong đấu tranh chống kế hoạch ''Bình định cấp tốc'' của địch. Đại hội
đã biểu dương những thành tích to lớn của nông dân miền Nam trong việc phát
triển thế trận chiến tranh du kích, đánh địch, bảo vệ vùng giải phóng, vùng căn
cứ và là lực lượng chủ yếu trên mặt trận sản xuất, bảo đảm đời sống và cung cấp
hậu cần cho bộ đội. Hội tập trung vận động, tuyên truyền nông dân thực hiện
đúng đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng.
Thực hiện chủ trương của Đảng, lấy địa bàn nông thôn làm
hướng tiến công chính, đánh mạnh vào kế hoạch “Bình định cấp tốc” của địch, giữ đất, giành dân, Hội Nông dân giải
phóng miền Nam đã chủ động giáo dục hội viên khắc phục tư tưởng nôn nóng, thoát
ly thực tế muốn thắng nhanh, đồng thời vạch rõ nhiệm vụ quan trọng nhất ở nông
thôn là phải ''giành dân, giành đất, phát
triển thế và lực của ta". Nông dân liên tục nổi dậy phá rã, phá banh
nhiều khu dồn dân, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ trên nhiều địa bàn quan
trọng. Vùng giải phóng đã mở rộng tới sát Sài Gòn. Ở đồng bằng Nam Bộ, nông dân
nổi dậy mở thêm nhiều vùng, nhiều lõm
(nằm trong vùng) giải phóng, nối các vùng giải phóng
thành thế liên hoàn liên xã, liên huyện.
Thắng
lợi của phong trào nông dân nổi dậy và cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972
đã làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh ở miền Nam và tiến tới
"Tổng tấn công" mùa Xuân năm 1975 giành trọn vẹn thắng lợi, đất nước
thống nhất, Nam - Bắc sum họp một nhà.
3. Hội
Nông dân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Phát
huy vai trò của tổ chức Hội Nông dân trong sự nghiệp cách mạng và tiến tới Đại
hội đại biểu nông dân toàn quốc, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo đối với giai cấp nông dân Việt Nam, như:.
Ngày
18/9/1974, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 209 - CT/TW về tổ chức
Đại hội Đại biểu nông dân tập thể các cấp.
Ngày 11/10/1974, Ban Bí thư
Trung ương Đảng ra Thông báo số 16 - TB/TW về việc thành lập Ban Trù bị Đại hội
đại biểu nông dân tập thể Trung ương (gắn với Ban Nông nghiệp Trung ương).
Ngày
25/6/1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Công văn số 156 - CV/TW, quyết định
tách Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể Trung ương (trước đây nằm
trong Ban Nông nghiệp Trung ương) thành một cơ quan riêng trực thuộc Ban Bí
thư, thuộc hệ thống các đoàn thể quần chúng.
Ngày
27/9/1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 78 - CT/TƯ về việc tổ chức
Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam.
Để
phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và đoàn kết nông dân lao động, đưa
nông thôn nước ta tiến lên CNXH, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập tổ chức
thống nhất của nông dân lao động trong cả nước, có hệ thống từ Trung ương đến
cơ sở, lấy tên là Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Chỉ thị khẳng định Hội
Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân
lao động trong cả nước, Hội có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết nông dân để giáo dục,
vận động nông dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta,
hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
nông nghiệp miền Nam, đưa nông thôn tiến lên CNXH. Hội kết nạp tất cả nông dân
hăng hái phấn đấu vào con đường làm ăn tập thể XHCN, theo nguyện tắc tự nguyện.
Hội
Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam
được thành lập có ý nghĩa chính trị to lớn. Sau nhiều năm không có tổ chức Hội
(ở miền Bắc), nay giai cấp nông dân cả nước có tổ chức thống nhất từ Trung ương
xuống cơ sở.
Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nông nghiệp nước ta chưa có những chuyển
biến tích cực. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp trong thời gian qua không còn phù
hợp. Những hạn chế của nó đã dẫn đến những biểu hiện suy thoái trong phát triển
sản xuất, những dấu hiệu khủng hoảng, bất hợp lý bộc lộ ngày càng rõ, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Tổ
chức Hội Nông dân ngày càng được Đảng quan tâm hơn. Ngày 27/9/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 116 -
CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động
của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.
Về tổ
chức Hội, Ban Bí thư quy định: “Ở Trung
ương, tỉnh, huyện thành lập Hội đồng của Hội Liên hiệp nông dân tập thể ở từng
cấp; cơ quan của Hội đồng gắn với Ban Nông nghiệp của Đảng, là một bộ phận của
Ban Nông nghiệp Trung ương, Ban Nông nghiệp tỉnh, thành phố. Ở cấp huyện, cử
đồng chí thường vụ cấp ủy Đảng phụ trách nông nghiệp trực tiếp làm chủ tịch Hội
đồng nông dân tập thể ở huyện và một số cán bộ có chất lượng giúp việc làm
những nhiệm vụ thường trực của Hội đồng nông dân tập thể huyện”. Đồng thời,
quyết định cho ban hành Điều lệ Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam quy
định rõ tính chất, mục đích, nhiệm vụ của Hội và tổ chức Hội ở các cấp và Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.
Ngày 20/12/1982, Ban Bí thư
Trung ương Đảng ra Thông tri số 22 -TT/TW quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập thể toàn quốc.
Ngày
13/02/1984, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo số 32 - TB/TW về việc mở
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt
Nam.
Ngày
10/3/1984, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Công văn số 326 - CV/TW về hướng dẫn
công tác chuẩn bị và tổ chức Đại hội đại biểu nông dân tập thể các cấp và đại
hội toàn quốc Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam.
Từ
ngày 28/5 - 31/5/1984, tại Hậu Giang, Ban Trù bị Đại hội đại biểu nông dân tập
thể toàn quốc đã tổ chức họp với 39/40 tỉnh, thành phố trong cả nước để sơ kết
Đại hội các cấp chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp
Nông dân tập thể Việt Nam.
Ngày 22/6/1984, Ban
Bí thư ra Thông tri số 45 - TT/TW, về tổ chức của Hội Liên hiệp Nông dân tập
thể Việt Nam. Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam là một tổ chức quần chúng
rộng rãi của nông dân lao động do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Địa bàn hoạt
động chủ yếu của Hội là cơ sở. Cơ quan của Hội các cấp là Hội đồng Hội Liên
hiệp nông dân tập thể. Tổ chức cơ sở của Hội là Hợp tác xã quy mô toàn xã, xã
viên là hội viên, được kết nạp tập thể. Ở cấp huyện do đồng chí huyện ủy phụ
trách nông nghiệp làm Chủ tịch; ở cấp tỉnh, thành phố do Trưởng hoặc Phó Ban
Nông nghiệp làm Chủ tịch. Hội đồng sử dụng bộ máy của Ban Nông nghiệp tỉnh,
thành làm thường trực của Hội. Ở Trung ương do đồng chí Trưởng ban Nông nghiệp
Trung ương làm Chủ tịch. Hội đồng sử dụng bộ máy của Ban Nông nghiệp Trung ương
làm thường trực Hội. Chuyển Ban Chấp hành của Hội ở các cấp thành Hội đồng.
Để
thống nhất quan điểm, nhận thức về vị trí, vai trò, tổ chức hoạt động của Hội
Liên hiệp Hội Nông dân tập thể, đồng thời chuẩn bị
tốt hơn về mọi mặt cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Liên hiệp
Nông dân tập thể Việt Nam. Từ ngày 26/4 - 28/4/1986, tại thị xã Hà Đông, tỉnh
Hà Sơn Bình, Ban Nông nghiệp Trung ương đã tổ chức hội nghị các Trưởng ban Nông
nghiệp và Chủ tịch Hội Nông dân tập thể các tỉnh, thành phố dưới sự chủ trì của
đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Bí thư Trung ương Đảng, cùng các đồng chí Vũ Oanh,
Dương Quốc Cẩm.
Quán
triệt tinh thần đổi mới theo nội dung Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, nhằm đẩy
mạnh hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam, ngày 24/3/1987, Ban
Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 05/CT-TW về Tổ chức Hội Liên hiệp Nông
dân tập thể Việt Nam và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội.
Ngày 01/3/1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết
định số 42- QĐ/TW về việc đổi tên Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội
Nông dân Việt Nam.
Tại
phiên họp ngày 17/01/1991, Bộ Chính trị đã đồng ý lấy ngày 14 tháng 10 năm 1930 làm
Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam.
Ngày
20/5/1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 69 – CT/TƯ về việc Tổ
chức kỷ niệm 61 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 –
14/10/1991). Lần đầu tiên Hội Nông dân Việt Nam tổ chức mít tinh kỷ niệm trọng
thể 61 năm Ngày thành lập Hội tại Thủ đô Hà Nội, Tổng Bí thư Đỗ Mười tới dự và
có bài phát biểu quan trọng.
Tại
Lễ Kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 –
14/10/2010), giai cấp nông dân Việt Nam đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao
tặng Huân Chương Sao Vàng (lần 2).
4. Các kỳ
đại hội của Hội Nông dân Việt Nam
4.1. Đại hội lần thứ I (nhiệm
kỳ 1988 - 1993)
Đại hội được tổ chức từ ngày 28/3 -
29/3/1988 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 613 đại biểu thay
mặt cho 11.188.789 hội viên của cả nước. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 95
đồng chí và bầu 17 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Phạm Bái - Ủy viên BCH Trung
ương Đảng được bầu giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt
Nam.
Đại hội là sự kiện chính trị trọng
đại, đã đánh dấu một mốc son quan trọng trên chặng đường cách mạng vẻ vang của
Đảng, mở ra giai đoạn phát triển mới của phong trào nông dân và Hội Nông dân
Việt Nam. Từ đây, Hội Nông dân Việt Nam, một tổ chức chính trị - xã hội rộng
rãi của giai cấp nông dân có hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ Trung ương đến cơ
sở, khẳng định những quan điểm cơ bản của Đảng về vị trí, vai trò của giai cấp
nông dân và Hội Nông dân Việt Nam.
4.2. Đại hội lần thứ II (nhiệm kỳ 1993 - 1998)
Đại hội được tổ chức từ ngày
15/11 - 19/11/1993 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 600
đại biểu đại diện cho 7.269.982 hội viên (số hội viên giảm nhiều so với Đại hội
I là do Hội có chủ trưởng rà soát danh sách, nâng cao chất lượng hội viên) .
Đại hội đã bầu 77 đồng chí vào Ban Chấp hành và 14 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng
chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) - Ủy viên BCH Trung ương Đảng được bầu lại làm
Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Đây là Đại hội “Đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động”, là Đại hội
của trí tuệ và niềm tin, nơi hội tụ ý chí và nguyện vọng của giai cấp nông dân
quyết tâm đổi mới và xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt.
4.3. Đại hội lần thứ III (nhiệm kỳ 1998 - 2003)
Đại hội được tổ chức từ ngày
17/11 - 20/11/1998 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Tham dự Đại hội
có 700 đại biểu thay mặt cho 7.215.544 hội viên. Đại hội đã bầu 114 Ủy viên Ban
Chấp hành, 19 Ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Đức Triều - Ủy viên BCH Trung
ương Đảng được bầu lại giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân
Việt Nam.
Đại hội khẳng định tiếp tục đổi mới
và phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Hội, tổ chức, động viên giai cấp nông
dân phát huy nội lực, cần kiệm xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
4.4. Đại hội lần thứ IV (nhiệm kỳ 2003 - 2008)
Đại hội được tổ chức từ ngày
22/11 - 25/11/2003 tại Cung Văn hóa Hữu nghị, Hà Nội. Tham dự Đại hội
có 860 đại biểu đại diện cho 8.173.238 hội viên cả nước. Đại hội đã bầu 120 Ủy
viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Vũ Ngọc Kỳ - Ủy
viên BCH Trung ương Đảng được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương
Hội Nông dân Việt Nam.
Chủ đề Đại hội là ''Đoàn kết - Đổi mới - Dân chủ - Phát
triển''. Đại hội đã xác định phương hướng là: Xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt, là trung tâm, nòng
cốt trong phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới; nâng cao vai
trò đại diện của giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong
sạch, vững mạnh, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh".
4.5. Đại hội lần thứ V (nhiệm kỳ 2008 - 2013)
Đại hội đã được tổ chức từ ngày
22/12 - 25/12/2008 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 1.175 đại biểu đại diện cho 9.563.577 hội viên. Đại hội đã
bầu 124 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí Nguyễn Quốc
Cường - Ủy viên BCH Trung ương Đảng tái đắc cử giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Chủ đề Đại hội: “Đoàn kết - Đổi mới - Hội nhập - Phát
triển”. Đại hội đã xác định phương hướng là: “Đoàn kết, năng động, sáng tạo, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh,
là chủ thể trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; Hội Nông dân vững
về chính trị, mạnh về tổ chức, thống nhất về hành động, là trung tâm và nòng
cốt trong phong trào nông dân, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới
trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế thế giới…”.
4.6. Đại hội lần thứ VI (nhiệm kỳ 2013 - 2018)
Đại hội được tổ chức từ ngày
30/6 - 03/7/2013 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 1.169 đại biểu thay mặt cho 9.913.432 hội viên cả nước. Đại
hội đã bầu 122 Ủy viên Ban Chấp hành và 21 Ủy viên Ban Thường vụ; đồng chí
Nguyễn Quốc Cường, Ủy viên BCH Trung ương Đảng được tái cử giữ chức Chủ tịch
Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Chủ đề Đại hội: “Đoàn kết - Đổi
mới - Chủ động - Hội nhập - Phát triển bền vững”.
Đại hội xác định phương hướng: Phát huy
vai trò trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng
nông thôn mới; đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động theo hướng kết hợp chặt
chẽ công tác tập hợp, tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân, tham gia xây
dựng cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; giám sát,
phản biện xã hội và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước với đẩy mạnh hợp tác tăng cường các hoạt động dịch vụ, tư
vấn, hỗ trợ và dạy nghề, đáp ứng nhu cầu và lợi ích thiết thực của hội viên,
nông dân. Trực tiếp và phối hợp thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án
phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở nông thôn...
Tại
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ thứ 8 (khóa VI), họp ngày
24/6/2016 tại Hà Nội đã bầu đồng chí Lại Xuân Môn - Ủy viên BCH Trung ương
Đảng, Phó Chủ tịch Thường trực giữ chức Chủ tịch BCH Trung ương Hội Nông dân
Việt Nam thay đồng chí Nguyễn Quốc Cường được Bộ Chính trị cho nghỉ hưu; tại
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam lần thứ 13 (Khóa VI),
họp ngày 12/01/2018, tại Hà Nội đã bầu đồng chí Thào Xuân Sùng, Ủy viên BCH
Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương giữ chức Chủ
tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam thay đồng chí Lại Xuân Môn
được Bộ Chính trị bố trí công tác mới.
4.7. Đại hội lần thứ VII (nhiệm kỳ 2018 - 2023)
Đại hội được tổ chức từ ngày 11 - 13/12/2018 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình - Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 999 đại biểu đại diện cho 10.192.865 hội viên cả nước. Đại
hội vinh dự được đón tiếp các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước: Tổng Bí thư,
Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, đại diện các ban, bộ, ngành trung ương, các
tỉnh ủy, thành ủy, các cơ quan thông tấn báo chí. Đại hội đã bầu 119 uỷ viên
Ban Chấp hành; Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt
Nam khoá VII họp ngày 12/12/2018 tại Hà Nội đã bầu 21 uỷ viên Ban Thường vụ;
đồng chí Thào Xuân Sùng, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng tái đắc cử giữ chức Chủ
tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam.
Đây là Đại hội của tinh thần: “Dân chủ - Đoàn
kết - Đổi mới - Hội nhập - Phát triển”. Đại hội xác định phương hướng chung của nhiệm kỳ 5 năm (2018-2023) là: Xây dựng Hội Nông dân Việt Nam trong sạch,
vững mạnh, phát huy vai trò của Hội và giai cấp nông dân trong phát triển nông
nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại. Hội Nông
dân Việt Nam cần nắm chắc nguyên tắc liên minh công nông, tiếp tục đổi mới toàn
diện và mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Hội theo hướng giải quyết
tốt lợi ích thiết thân của hội viên, nông dân, luôn dựa vào nông dân, vì nông
dân; kết hợp chặt chẽ phương pháp vận động, tuyên truyền miệng với phương pháp
tổ chức có hiệu quả các hoạt động dịch vụ, tư vấn, đào tạo nghề, hỗ trợ hội
viên, nông dân sản xuất, kinh doanh; vận động hội viên, nông dân thực hiện có
hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới;
phát triển và nâng cao chất lượng hội viên.
Tiếp
tục đẩy mạnh Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết
giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững.
Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (Khóa VII) họp
tại Hà Nội từ ngày 22-23/7/2019 đã thông qua ba Nghị quyết về xây dựng Hội:
Nghị quyết số 04 - NQ/HNDTW “về đẩy mạnh
xây dựng Chi Hội Nông dân nghề nghiệp, Tổ Hội Nông dân nghề nghiệp”; Nghị
quyết số 05 - NQ/HNDTW “về tăng cường
công tác phát triển, quản lý và nâng cao chất lượng hội viên Hội Nông dân Việt
Nam”; Nghị quyết số 06 - NQ/HNDTW “về
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội Nông dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong thời kỳ mới”.
5. Những bài học kinh nghiệm của Hội Nông dân Việt Nam
Một
là, sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi kết quả hoạt động của Hội Nông dân Việt
Nam; không
ngừng đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nâng cao nhận thức, trách nhiệm và tinh thần sáng
tạo của các cấp Hội, cán bộ, hội viên, nông dân trong thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chỉ thị, nghị quyết của Hội Nông dân Việt Nam.
Hai là, chăm lo xây dựng,
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội các cấp có đủ năng lực, phẩm chất, nhiệt tình, trách nhiệm, hiểu nông dân
và vì nông dân, nắm vững các chủ trương, chính sách để tuyên truyền, giải thích
cho nông dân hiểu; chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
nông dân thì sẽ phát huy được vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, đổi mới nội dung, phương thức vận động nông dân phù hợp
với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế thì mới đoàn kết, tập hợp nông dân và nâng cao được chất lượng
hoạt động của Hội Nông dân các cấp; chú trọng chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích thiết
thực, chính đáng của nông dân để tuyên truyền, vận động. Các
hoạt động của Hội đều hướng về cơ sở, kịp thời nắm bắt, giải
quyết những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của hội viên nông dân và coi sự tham gia của hội viên, nông dân về các hoạt động công tác Hội
và phong trào nông dân làm thước đo đánh giá chất lượng công tác Hội và đội
ngũ cán bộ Hội các cấp.
Bốn là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát
của Hội phải có trọng tâm, trọng điểm, hướng mạnh về cơ sở và thường xuyên cùng
hội viên, nông dân sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, động viên khen, thưởng
kịp thời để hoàn thiện và nhân rộng các điển hình tiên tiến thì Hội Nông dân sẽ
hoạt động có hiệu quả, phát động thành công các phong trào thi đua yêu nước.
Năm là, tăng cường phát
huy dân chủ, mở rộng các hình thức đối thoại, tiếp xúc giữa cấp ủy, chính
quyền, tổ chức Hội các cấp với hội viên, nông dân; nâng cao hiệu quả công tác
giám sát và phản biện xã hội, nêu cao vai trò của hội viên, nông dân trong việc
tham gia góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền. Chủ động phối hợp với các bộ,
ban, ngành và địa phương nhằm tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ
công tác Hội và phong trào nông dân.
III. HỘI NÔNG DÂN TỈNH HÀ NAM QUA CÁC
KỲ ĐẠI HỘI
Cùng với sự ra đời, phát triển của tổ chức Hội Nông
dân Việt Nam, Hội Nông dân tỉnh Hà Nam cũng sớm được hình thành và có
những đóng góp to lớn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước. Đến nay tổ chức Hội Nông dân tỉnh được hình thành và phát
triển ở 105 xã, phường, thị trấn với (727 chi hội, gồm 654 chi hội thôn, xóm;
73 chi, tổ hội nghề nghiệp), tổng số 178.016 hội viên, tỷ lệ thu hút đạt 92,34% số hộ nông thôn toàn tỉnh
và chiếm 66,25% số lao động nông nghiệp. Từ khi thành lập đến nay Hội
Nông dân tỉnh Hà Nam đã trải qua 10 kỳ Đại hội.
- Đại hội lần thứ I (nhiệm kỳ 1976 - 1983)
Đại
hội được tổ chức từ ngày
15 - 19/10/1976 tại thành
phố Nam Định. Tham dự Đại hội có
350 đại biểu thay mặt cho trên 1,0 triệu nông dân, xã viên hợp
tác xã trong toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Hội đồng Nông dân
tập thể tỉnh Hà Nam Ninh gồm 35 đồng chí. Ban Thường trực Hội đồng gồm 8 đồng
chí; Đồng chí Trần Tính được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng, đồng chí Trần Văn
Tuyên và đồng chí Phạm Văn Chương được bầu giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng, đồng
chí Hoàng Tân là Thường trực Hội đồng.
Đại
hội xác định phương hướng nhiệm vụ phong trào nông dân và Hội Nông dân trong
giai đoạn cách mạng mới là: “Nông dân tập thể Hà Nam Ninh phấn đấu đưa nông nghiệp
phát triển vượt bậc, tiến lên theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”. Đại
hội đánh dấu sự quan tâm của Đảng, chính quyền các cấp trong việc củng cố tổ
chức Hội và vai trò của giai cấp nông dân trong giai đoạn cách mạng mới.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư, ngày
28/3/1980 Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Chỉ thị số 06 về việc thực hiện Chỉ thị số
78 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Thực hiện Chỉ thị số 06 của Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ, Hội đồng Nông dân tập thể tỉnh tổ chức Hội nghị đại biểu toàn tỉnh vào
ngày 10 - 11/4/1980 để đổi tên Hội thành
Hội liên hiệp Nông dân tập thể tỉnh Hà Nam Ninh và thành lập Ban Chấp hành lâm
thời trên cơ sở số Uỷ viên Ban Chấp hành cũ. Thường trực gồm 8 đồng chí, đồng
chí Phạm Văn Chương được cử giữ chức chủ tịch Hội, các đồng chí Vũ Thị Tâm, Trần
Văn Tuyên được cử giữ chức Phó chủ tịch Hội.
(Đến Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh
Hà Nam lần thứ V nhất trí đánh giá và coi Hội nghị tháng 4/1980 là một kỳ Đại
hội lần thứ IV).
Nhiệm
vụ chủ yếu của Hội trong giai đoạn này là: “Vận động nông dân tiến hành đồng
thời 3 cuộc cách mạng: Cách mạng tư tưởng văn hoá, cách mạng khoa học kỹ thuật,
cách mạng quan hệ sản xuất ở nông thôn; trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là
then chốt”.
2. Đại hội lần thứ II (nhiệm kỳ 1983 - 1987)
Đại hội được tổ chức từ ngày 16- 18/11/1983 tại thành phố Nam Định.
Tham dự Đại hội có 333 đại biểu thay mặt cho hơn 80 ngàn hội
viên về dự. Đại hội đã bầu ra 35 đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp
Nông dân tập thể tỉnh Hà Nam Ninh, 08 đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ tỉnh Hội;
Đồng chí Phạm Văn Chương được bầu giữ chức Chủ tịch Hội, các đồng chí Vũ thị
Tâm, Trần Văn Tuyên được bầu giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại
hội đề ra phương hướng nhiệm vụ chung là: “Ra sức tuyên truyền, giáo dục động
viên giai cấp nông dân tập thể phát huy lòng yêu nước yêu Chủ nghĩa xã hội,
tinh thần làm chủ tập thể, nêu cao ý thức tự lực, tự cường, tinh thần chủ động
sáng tạo, khắc phục khó khăn, dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất,
tiết kiệm, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, quyết tâm thực hiện các mục tiêu
kinh tế xã hội trong kế hoạch 5 năm lần thứ 3, củng cố và hoàn thiện quan hệ
sản xuất mới, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước, thực hiện tốt mối quan hệ công -
nông liên minh, đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, xây dựng nông thôn mới, con người
mới xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa”.
3. Đại hội lần thứ III (nhiệm kỳ 1987
- 1992)
Đại hội được tổ chức từ ngày
11/7/1987 tại thành phố Nam
Định. Tham dự Đại hội có 247 đại biểu về dự. Đại hội đã bầu ra 39 Uỷ
viên Ban chấp hành Hội Nông dân tập thể tỉnh Hà Nam Ninh, 9 đồng chí Uỷ viên
Ban Thường vụ. Đồng chí Đỗ thị Hồng Rây được bầu giữ chức Chủ tịch Hội, đồng
chí Phạm Thanh Dưỡng giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm là: “Ra sức
xây dựng Hội Nông dân tập thể vững mạnh, vận động nông dân thực hiện những
nhiệm vụ, mục tiêu của Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, tập trung vào các chương trình
kinh tế xã hội là: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, dân
số và lao động. Tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng ở nông thôn; ra sức thi
đua lao động, sản xuất, tiết kiệm; vừa làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước, vừa
đảm bảo quyền lợi của nông dân, đấu tranh chống tiêu cực, bất công và các tệ
nạn xã hội; tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị,
chống âm mưu phá hoại nhiều mặt của địch, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ
nghĩa, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước”.
Mục
tiêu phấn đấu trong nhiệm kỳ là: Có 40-50% số cơ sở hoạt động khá, giỏi, thực
hiện được 4 phong trào, 5 nhiệm vụ. 70% số hội viên phấn đấu đạt danh hiệu “
Hội viên tiên tiến theo tiêu chuẩn “5 việc của hội viên”.
Tháng
10/1988 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Tô Xuân Giám giữ chức Phó Chủ tịch
Hội.
4. Đại
hội lần thứ V (nhiệm kỳ 1992 -1998)
Thực hiện Nghị quyết số 32 - NQ/TU ngày 13/01/1992 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Hà Nam Ninh về việc “Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện việc chia
tách tỉnh Hà Nam Ninh, thành lập hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ và Trung
ương Hội Nông dân Việt Nam, Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Nam Hà
lần thứ V được tổ chức từ ngày 22 - 24/4/1992 tại thành phố Nam định. Tham dự Đại hội có
245 đại biểu thay mặt cho hơn 52 vạn hội viên về dự. Đại hội đã bầu 27 đồng chí là uỷ viên
Ban Chấp hành Hội Nông dân tỉnh Nam Hà ; 7 đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ;
đồng chí Tô Xuân Giám được bầu giữ chức Chủ tịch Hội, các đồng chí Phạm Bá Ninh
và đồng chí Nguyễn Thị Kim Dung giữ chức Phó chủ tịch Hội.
Đại
hội đề ra mục tiêu tổng quát của hội là: “Xây dựng tổ chức hội vững mạnh, động
viên nông dân đẩy mạnh sản xuất, làm giàu, đoàn kết, dân chủ, xóa đói giảm
nghèo, xây dựng nông thôn mới”.
Thực
hiện Nghị quyết 02-NQ/TU ngày 02/12/1996 của Ban Chấp hành Tỉnh uỷ Nam Hà về
việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chia tách địa giới hành chính tỉnh Hà Nam và
Nam định. Ngay sau khi tái lập tỉnh, Ban Chấp hành lâm thời Hội
Nông dân tỉnh Hà Nam (gồm 9 đồng chí do đồng chí Phạm Bá Ninh giữ chức
Chủ tịch Hội, đồng chí Nguyễn Thị Dung giữ chức Phó chủ tịch Hội) Hội Nông dân
tỉnh Hà Nam sớm ổn định tổ chức và triển khai các nhiệm vụ công tác Hội và phong
trào nông dân đến các cấp hội trong toàn tỉnh và đạt được kết quả đáng ghi
nhận. Toàn tỉnh đến đầu năm 1997 có 6 huyện, thị Hội, 110 cơ sở Hội và 1308
chi, trong đó có 1247 chi theo thôn xóm và 61 chi hội nghề nghiệp. Số hộ nông
dân có hội viên là 89.401 hộ, chiếm 52,1% so tổng số hộ nông dân. Năm 1997 kết
nạp được 7.805 hội viên, nâng tổng số Hội viên toàn tỉnh cuối năm 1997 lên
97.206 hội viên; trong đó có 11.500 hội viên là Đảng viên, chiếm 37,5% so tổng
số Đảng viên nông thôn; có 931 chi hội có quỹ hội, chiếm 71,2% so tổng số chi
hội; 108/112 cơ sở có quỹ; Bình quân quỹ hội viên là 8.320 đồng. Toàn tỉnh có
20/112 cơ sở có Quỹ Hỗ trợ nông dân.
5. Đại
hội lần thứ VI (nhiệm kỳ 1998 - 2003)
Đại hội được tổ
chức từ ngày 19 - 21/8/1998 tại thị xã Phủ Lý. Tham dự Đại hội có 170 đại biểu
thay mặt cho 97.206 hội viên ở ở 6 huyện, thị xã; 112 cơ sở. Đại hội đã bầu ra
Ban Chấp hành Hội Nông dân tỉnh Hà Nam gồm 21 đồng chí, 05 đồng chí trong Ban
thường vụ; đồng chí Phạm Bá Ninh được bầu giữ chức Chủ tịch Hội, đồng chí Nguyễn
Thị Kim Dung giữ chức Phó Chủ tịch Hội.
Đại hội đề ra phương hướng nhiệm kỳ 5 năm tới là:
“Tập hợp đông đảo nông dân vào tổ chức Hội, tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung
và phương thức hoạt động, xây dựng Hội vững mạnh về mọi mặt, thực sự làm nòng
cốt trong phong trào nông dân. Phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của nông dân
trong phong trào phát triển kinh tế - xã hội nông thôn xây dựng nông thôn mới.
góp phần tích cực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn”.
Tháng 6/2000
Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Văn Hóa giữ chức Chủ tịch Hội thay
đồng chí Chủ tịch Phạm Bá Ninh nghỉ hưu.
Tháng 10/2001 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung các đồng chí
Nguyễn Thanh Nghị, Nguyễn Thị Bình giữ chức Phó Chủ tịch Hội.
6. Đại
hội lần thứ VII (nhiệm kỳ 2003 - 2008)
Đại hội được tổ chức
từ ngày 22 - 23/4/2003 tại Trung tâm văn hóa tỉnh Hà Nam. Tham dự Đại hội có 180 đại biểu thay
mặt cho 116.301 hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Hội
Nông dân tỉnh Hà Nam gồm 25 đồng chí, Ban thường vụ gồm 07 đồng chí; đồng chí
Nguyễn Văn Hóa được bầu giữ chức Chủ tịch Hội, các đồng chí Nguyễn Thanh Nghị,
Nguyễn Thị Bình giữ chức Phó Chủ tịch Hội.
Đại hội đề ra mục tiêu, nhiệm vụ công tác Hội 5 năm tới
là: “Tăng cường đoàn kết thống nhất, đổi mới nội dung phương thức hoạt động.
Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh toàn diện, Hội Nông dân là trung tâm và nòng cốt
phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng quê hương Hà Nam giàu mạnh văn minh”.
Tháng
10/2005 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Kiều Hữu Bình giữ chức Chủ tịch
Hội thay đồng chí Chủ tịch Nguyễn Văn Hóa nghỉ hưu.
Tháng 8/2007 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Dương
Văn Bằng giữ chức Phó Chủ tịch Hội.
7. Đại
hội lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2008 -
2013)
Đại
hội được tổ chức từ ngày 22 - 23/4/2008
tại thị xã Phủ lý. Tham dự Đại hội có
186 đại biểu thay mặt cho 135.382 hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra
Ban Chấp hành Hội Nông dân tỉnh Hà Nam gồm 25 đồng chí, Ban thường vụ gồm 7
đồng chí; đồng chí Kiều Hữu Bình được bầu giữ chức Chủ tịch Hội, các đồng chí
Nguyễn Thị Bình, Dương Văn Bằng giữ chức Phó Chủ tịch Hội.
Đại hội đã đề ra 10 mục tiêu chỉ tiêu chủ yếu: (1)Trong 5
năm phát triển 30.000 hội viên mới, cuối nhiệm kỳ tỷ lệ hội viên so với lao
động nông nghiệp đạt 60%; (2)Hàng năm có 80% cơ sở Hội; 70% chi tổ Hội đạt tiêu
chuẩn vững mạnh; (3)100% cơ sở Hội, chi tổ Hội có quỹ; (4)Hàng năm 100% huyện,
thành Hội, cơ sở Hội; 60% chi Hội có báo, tạp chí của Hội; (5)Bình quân hàng
năm có 45% hộ hội viên nông dân đạt danh hiệu sản xuất kinh doanh giỏi các cấp; (6)Tỷ lệ hội viên nghèo giảm
còn 3% (mỗi năm giảm 1,18%); (7)100% huyện, thị và các cơ sở Hội có quỹ Hỗ trợ
nông dân và quản lý tốt các nguồn quỹ khác; (8)Đào tạo dạy nghề và tư vấn việc
làm mỗi năm từ 10.000 lao động trở lên; (9)Có trên 80% hộ hội viên nông dân đạt
danh hiệu “Gia đình văn hóa”; (10)80% chi hội nhận duy tu bảo dưỡng đường giao
thông nông thôn hoặc các công trình hạ tầng khác trong nông thôn.
Tại Lễ
Kỷ niệm 81 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 - 14/10/2011), Hội
Nông dân tỉnh Hà Nam đã vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động Hạng Ba,
phần thưởng cao quý của Nhà nước giành tặng thưởng cho các cấp Hội Nông dân
trong tỉnh và ghi nhận thành tích của cán bộ, hội viên, nông dân tỉnh nhà thời
gian qua.
Tháng
10/2008, Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Lê Thị Hồng Lạng giữ chức Chủ
tịch Hội thay đồng chí Chủ tịch Kiều Hữu Bình chuyển công tác.
8. Đại
hội lần thứ IX (nhiệm kỳ 2013 - 2018)
Đại hội được tổ
chức từ ngày 17 - 18/4/2013, tại Thành phố Phủ Lý. Tham dự Đại hội có với 216 đại biểu
thay mặt cho 166.964 hội viên toàn tỉnh về dự. Đại hội đã bầu ra BCH gồm 31
đồng chí, Ban thường vụ gồm 9 đồng chí; đồng chí Lê Thị Hồng Lạng được bầu giữ
chức Chủ tịch Hội, các đồng chí Nguyễn Văn Đạo, Tống Văn Tam, Khổng Thị Thảo
giữ chức Phó Chủ tịch Hội.
Đại hội đề ra 3 mục tiêu: (1)Nâng cao nhận thức cho cán bộ,
hội viên, nông dân về ý thức chính trị, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý, điều hành của Chính quyền, qua đó thực hiện tốt chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; (2)Tuyên truyền thu hút
đông đảo nông dân vào Hội; xây dựng tổ chức Hội các cấp ngày càng vững mạnh;
nâng cao vai trò, vị thế của Hội thực sự xứng đáng là trung tâm, nòng cốt cho
phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới, xây dựng khối Đại đoàn
kết toàn dân tộc; (3)Tổ chức tốt 3 phong trào thi đua của Hội nhằm tạo chuyển
biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống
nông thôn trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền
vững, sản xuất hàng hóa; tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong
nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; thực hiện thành công chương
trình xây dựng nông thôn mới.
Tại Lễ
Kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 - 14/10/2015),
Hội Nông dân tỉnh Hà Nam đã vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động Hạng Nhì,
phần thưởng cao quý của Nhà nước giành tặng thưởng cho các cấp Hội Nông dân
trong tỉnh và ghi nhận thành tích của cán bộ, hội viên, nông dân tỉnh nhà trong
giai đoạn 2011 - 2015.
Tháng 9/2014 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Khổng Thị
Thảo giữ chức Chủ tịch Hội thay đồng chí Chủ tịch Lê Thị Hồng Lạng nghỉ hưu.
Tháng
9/2018 Hội nghị BCH đã bầu bổ sung đồng chí Tạ Văn Đạt giữ chức Phó Chủ tịch
Hội.
9. Đại
hội lần thứ X (nhiệm kỳ 2018 - 2023)
Đại hội được tổ chức từ ngày 04 - 05/10/2018
tại Nhà Văn hóa Trung tâm tỉnh. Tham
dự Đại hội có 230 đại biểu thay mặt cho trên 178.000 hội viên toàn tỉnh
về dự. Đại hội đã bầu ra BCH gồm 24 đồng chí; Ban Thường vụ gồm 06 đồng chí;
đồng chí Tạ Văn Đạt được bầu giữ chức Chủ tịch Hội, đồng chí Tống Văn Tam giữ
chức Phó Chủ tịch Hội.
Đây là Đại hội của tinh thần: “Dân
chủ- Đoàn kết - Đổi mới - Hội nhập - Phát triển”. Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm kỳ 2018 - 2023 là: “Hội Nông dân tỉnh Hà Nam tiếp tục phát huy sức mạnh
đoàn kết, năng động, sáng tạo, xây dựng giai cấp nông dân là chủ
thể trong phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững, đi đầu thực
hiện thắng lợi “Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018 - 2020” và Chương trình “Tuyên
truyền, vận động sản xuất, kinh doanh nông sản thực phẩm an toàn vì sức khỏe
cộng đồng giai đoạn 2017- 2020”; chủ động hội nhập quốc tế; xây dựng tổ
chức Hội vững mạnh, xứng đáng là trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân
và công cuộc xây dựng nông thôn mới; tham gia có hiệu quả vào công tác xây dựng
Đảng, chính quyền vững mạnh và khối đại đoàn kết dân
tộc...”.
Đại hội đề ra 4 mục tiêu: (1)Xây dựng Hội Nông dân tỉnh Hà Nam trong sạch,
vững mạnh và tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công
tác nông vận; tích cực vận động hội viên, nông dân phát triển nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững. Thực hiện tốt công tác tập hợp, đoàn
kết, phát huy dân chủ, sức sáng tạo, khả năng liên kết, hợp tác của hội viên,
nông dân; tham mưu cho Đảng và phối hợp với các cơ quan Nhà nước xây dựng chủ
trương, cơ chế, chính sách đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội
viên, nông dân; (2)Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả Phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi,
đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”; huy động các nguồn lực
hỗ trợ hội viên, nông dân phát
triển sản xuất, kinh doanh,
nhất là hội viên, nông dân khởi nghiệp thành công,
hợp tác phát triển sản xuất, kinh doanh hiệu quả, cải thiện chất lượng cuộc
sống, giảm nghèo bền vững; (3)Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ Hội
có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực vận động nông dân
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; (4)Nâng cao chất lượng hội viên và xây dựng giai cấp
nông dân vững mạnh; tăng cường tập huấn, đào tạo, cung cấp thông tin, tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất, kinh
doanh; xây dựng lực lượng lao động nông thôn có tác phong công nghiệp, có năng
lực quản lý và kỹ năng sản xuất chuyên nghiệp đáp ứng được yêu
cầu của nền sản xuẩt hàng hóa và áp dụng các thành quả của nền nông nghiệp 4.0;
thực hiện ngày càng
tốt vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông
thôn mới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, quốc phòng- an ninh của tỉnh.
Đồng thời đề ra một số chỉ
tiêu như: Kết nạp được 20.000 hội viên mới; hàng năm có từ 60% số hộ nông dân
trở lên đăng ký phấn đấu và có từ 50% số hộ đăng ký trở lên đạt danh hiệu sản
xuất kinh doanh giỏi các cấp; hỗ trợ giảm nghèo từ 800 - 1.000 hội viên
nghèo/năm; phối hợp vận động trên 90% hộ hội viên, nông dân tham gia bảo hiểm y
tế tự nguyện;100% cơ sở hội tổ chức cho hội viên nông dân sản xuất kinh doanh
nông sản đăng ký, cam kết đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm…
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Hội Nông dân tỉnh Hà Nam (Khóa X) họp ngày 28/6/2019 đã thông qua 02 Nghị quyết về
xây dựng Hội và đẩy mạnh phong trào nông dân: Nghị quyết số 01- NQ/HNDT “về nâng cao chất lượng công tác xây dựng
hội, trọng tâm là xây dựng cơ sở hội; chi hội; tổ hội giai đoạn 2019 - 2023”, Nghị
quyết số 02- NQ/HNDT “về phát triển mô
hình kinh tế của Hội giai đoạn 2019 - 2023”.
*
* *
Trải qua 90 năm xây dựng và trưởng thành, với những thành tích
trong công tác xây dựng tổ chức Hội và thực hiện tốt các phong trào nông dân,
Hội Nông dân tỉnh Hà Nam đã được Nhà nước tặng thưởng Huân Chương Lao động hạng
Ba, hạng Nhì; Thủ tướng Chính phủ, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Uỷ ban
nhân dân tỉnh tặng Hà Nam tặng Cờ đơn vị thi đua xuất sắc nhiều năm liền; các
bộ, ngành Trung ương, Uỷ ban nhân dân tỉnh tặng nhiều Bằng khen…
Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam là dịp
để cán bộ, hội viên, nông dân cùng nhân dân cả nước ôn lại truyền thống cách mạng vẻ vang của tổ chức Hội và giai cấp nông dân Việt Nam; cổ vũ,
động viên cán bộ, hội viên, nông dân ra sức thi đua, phát huy vai trò, trách
nhiệm của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông
nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại góp phần
thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hòa bình, thịnh vượng.
MỘT SỐ KHẨU
HIỆU TUYÊN TRUYỀN 90 NĂM KỶ NIỆM NGÀY THÀNH LẬP HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
1.
Nhiệt liệt chào mừng 90 năm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 -
14/10/2020)!
2. Cán
bộ, hội viên nông dân thi đua lập thành tích chào mừng 90 năm Ngày thành lập
Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930 - 14/10/2020)!
3. Xây
dựng Hội Nông dân Việt Nam trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm của toàn thể
cán bộ, hội viên nông dân!
4. Cán
bộ, hội viên, nông dân cả nước tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh!
5. Cán
bộ, hội viên, nông dân ra sức thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đảng
bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 tiến tới Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng!
6. Cán
bộ, hội viên, nông dân cả nước quyết tâm thực hiện phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu
có, nông thôn văn minh, hiện đại!
7.
Giai cấp Nông dân Việt Nam đoàn kết, sáng tạo, phát triển vì mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”!
8.
Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
9.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
10.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!